Page 172 - AllbertEstens
P. 172
giữa các vật thể và dụng cụ đo, sự mô tả nhân quả dựa trên
khái niệm không - thòi gian được gìn giữ trong lý thuyết
tương đối cần phải từ bỏ. Thay vào đó, quan điểm bổ sung sẽ
là một sự mồ rộng hợp lý của tinh thần nhân quả.
Một cách ngắn gọn, như đã trình bày trong [16], có thể nói
nguyên lý bổ sung là sự khẳng định rằng các kết quả quan sát
trong các kiểu thí nghiệm khác nhau là không thể cộng lại, tích
lũy lại, hay tổ hợp lại để có một hình ảnh đơn nhất về thực tại,
mà cần được xem như những mặt khác nhau của thực tại, các
mặt này bổ sung cho nhau theo nghĩa chỉ có toàn bộ các kết quả
quan sát mới có thể cung cấp hết thông tin về các tính chất của
các vật thể trong vật lý vi mô. Chấp nhận nguyên lý này, cơ học
lượng tử có thể xem là một lý thuyết đầy đủ về thực tại. Tính nhị
nguyên sóng - hạt và hệ thức bất định là những biểu hiện trực
tiếp của nguyên lý này.
Theo Ballentine, tác giả một công trình tổng quan có
nhiều ảnh hưởng về cách giải thích thống kê của cơ học lượng tử
(statistical interpretation; còn gọi là "cách giải thích tập hợp" -
ensemble interpretation - để không lẫn vối "cách giải thích xác
suất" của Born cũng được gọi là "cách giải thích thông kê") [17],
ngoài cách giải thích Copenhagen, còn một cách giải thích nữa
cũng được xem là chính thống: cách giải thích Princeton. Nói
cách khác, cách giải thích chính thống bao gồm hai trường phái:
Trường phái Copenhagen vối Bohr là người chủ xướng và
Rosenfeld là người biện hộ chính, và trường phái Princeton do
John von Neumann sáng lập và Eugene Wigner là đại biểu. Hai
trường phái này có cùng quan điểm "chính thống" về khái niệm
"trạng thái": Trạng thái thuần^ cung cấp một sự mô tả đầy đủ
’’ Trạng thái được biết một cách chính xác do sự chuẩn bị hệ để đo là đầy đủ; khác vói
trạng thái hỗn hợp, là một tập hợp các trạng thái khả đĩ với các xác suất có thể xẩy ra.
170