Page 173 - AllbertEstens
P. 173
và toàn diện về một hệ riêng lẻ, thí dụ như một electron.
Cách tiêp cận của von Neumann có tính hình thức và cô
đặc về toán học. Trái với cách tiếp cận của Bohr, nó được suy ra
không phải từ sự phân tích khái niệm chặt chẽ, mà là nhằm đáp
ứng từ bên trong các vấn để khái niệm được đặt ra do bản thân
cách tiêp cận. Nó giải quyết các vấn để một cách trực tiếp rõ
ràng về hình thức, cụ thể là xem xét vấn để đo theo cơ học lượng
tử; mà Bohr chưa bao giờ bàn đến một cách hình thức, mặc dầu
vai trò trung tâm của nó trong học thuyết của ông. Với tuyên bố”
đã chứng minh các tham sô" ẩn không thể tồn tại, von Neumann
đã xây dựng một lý thuyết hình thức về đo xoay quanh ý tưởng
về sự rút gọn (sự suy sụp) của hàm sóng ở một phép đo vối
trách nhiệm được đặt vào người quan sát. Wigner thì gợi ý rằng
chính "ý thức" đã rút gọn (làm suy sụp) hàm sóng mà do đó, theo
ông, ta cần phải đưa thêm vào phương trình Schrödinger một sô'
hạng phi tuyến.
Những cách giải thích chính thống cơ học lượng tử ngay từ
đầu đã đứng trước sự phê phán của một sô" người mà tiêu biểu là
Einstein với cuộc tranh luận Bohr - Einstein nổi tiếng bắt đầu
từ Hội nghị Solvay năm 1927. Song thời gian trôi đi mà vẫn
không có một cách giải thích nào khác tỏ ra "hay" hơn hay một
lý thuyết nào khác "đầy đủ" hơn thay thế cơ học lượng t*ử như đã
được xây dựng, và cộng đồng nghiên cứu đã dần dần chấp nhận
cách giải thích được Bohr chủ xưống. Sự chấp nhận này đến
năm 1932 lại được củng cô" một cách vững chắc khi nhà toán học
von Neumann đưa ra định lý về sự không thể có các tham sô" ẩn
hay biến ẩn - những biến khả dĩ xác định một quá trình cơ sở
mà từ đó ta có thể hiểu được các hiện tượng lượng tử một cách
thực tế hơn. Do tiếng tăm của von Neumann về toán học và do
các nghiên cứu của Bohr, Heisenberg, Pauli, v.v... , sau sự kiện
này mọi nghiên cứu vể các nền tảng của cơ học lượng tử đã chìm
171