Page 111 - Xã Hội Việt Nam Thế Kỷ XVII
P. 111
sống trên thuyền (như ông Tavernier đã thuật) trừ khi họ
phải đi xa.
Các thổ sản của xứ Đông Kinh
Trái cây: Cam, dừa, cùi bùi, bên Xiêm: dầu dừa thắp đèn;
nước ngọt. Ổi chín hay xanh đểu làm săn ruột, gây bệnh táo.
Đu đủ, cam, hổng, chuối, cây đa.
Vải; vị ngọt, dáng đẹp; nhưng mùa vải không quá bốn
mươi ngày; vào khoảng tháng Tư dương lịch, lúc vải sắp
chín, chúa Trịnh sai đóng dấu lên trên những cây vải ngon
nhất trong xứ, của ai cũng mặc, chủ cây phải giữ và không
được coi như của riêng của mình nữa, phải canh gác để khỏi
có kẻ bẻ trộm mà không được nhà nước trả của và đền công.
Nhãn: làm long nhãn; người Đông Kinh cho là nóng và
độc; mơ, mận, mít: mít dai ngon hơn mít mật.
Chuột, tổ yến, ba ba, dứa, chanh.
Tơ: Xứ Đông Kinh sản xuất ra được nhiều và người
nghèo kẻ giàu đểu may quần áo lụa mặc, giá cũng rẻ như
những hàng trúc bâu^^^ ngoại quốc.
Hoa: Vê' hoa thơm, tuy không chuyên giồng hoa, tôi cũng
biết được hơn hai thứ. Nhưng tôi không ngửi thấy mùi thứ
hoa mà họ gọi là “la bagne”. Có một thứ hoa hổng cánh trắng
và đỏ thẫm; một thứ nữa cánh trắng và vàng mọc thành bụi
không có gai nhưng cũng không có hương thơm cây ông lão.
Có thứ hoa tròn như các nụ giống như hoa (câpre) cây ông
lão của ta nhưng nhỏ hơn; thơm ngang tất cả các thứ hoa tôi
biết và mười lăm ngày sau khi hái vẫn còn đượm hương. Các
bá quan dùng để ướp thơm quần áo. Lan ở đây cũng có, nhỏ
(1) Trúc bâu: Thứ vải trắng mịn, khổ rộng. (Nguyên chú)
112