Page 357 - Việt Sử Kỷ Yếu
P. 357

-  Quân địa  phương gọi  là thố binh  hay  tạm  binh,  thuộc binh,
      đóng rải rác các dinh phía nam.
            Trong  việc  tuyến  binh,  có  chính  sách  cưỡng bách  đầu  quân.
      Tất cả đinh  nam từ  18 đến  50 tuổi đều phải ghi tỗn vào sổ đinh để
      lấy lính,  trừ những người ôhi vếu, tàng tật hay con một.
            Quân  đội  gồm  nhiều  binh  chủng;  Bộ  binh,  thuỷ  binh,  pháo
      binh và  tượng binh.  Vũ khí bên  cạnh  gươm  giáo cung tên,  có súng
      lớn mua của lái buôn phương tây.  Chiến thuyền khá  lớn,  mỗi chiếc
      có 30 chèo,  3 khẩu đại bác ở mũi và 2 khẩu hai bên.
            VIỆC THUÊ KHOẤ - Ruộng đất quy ba hạng;
            -  Hạng nhất nộp  40 thăng thóc và 8 hỢp  gạo.
            -  Hạng nhì nộp  30 thăng thóc và 6 hỢp gạo.
            - Hạng ha nộp 20 thăng thóc và 4 hỢp gạo.
            Ruộng  đất  xấu  (thu  điền  khô  thổ)  phái  nộp  mỗi  mẫu  3  tiền.
      Ruộng hoang mới khai thác cùng 3 tiền.
            Quan đồn điền thì hoặc cho thuê với giá từ 3 tiền đến  1  quan,
      hoặc thu tô từ  1  quan 3 tiền 30 đồng đến  1  quan 9 tiền.
            Ngoài số chính này,  Cvòn  thu mấy khoán phụ nữa.
            Chúa  Nguyễn chia dân  làm  nhiều  hạng:  Tráng dân, cố,  cùng,
      đào, lão,  bất cụ, lại chia 2 loại:  Chính hộ và khách hộ.
            Thuế  dinh  chia  ra  4  loại;  Sai  dư,  cước  mễ,  thường  tân,  tiết
      liệu.  Tất  cả  mọi  người  đều  phải  nộp  thuế sai  dư  (phụ  dịch)  từ  3
      tiền đến 2 quan.
            Ngoài  ra,  tất  cả  các  sản  phẩm  thủ  công,  thổ  sản  v.v...  đều
      phải nộp thuê hiện vật hoặc tiền.  Dân ven biển làm  muối phải nộp
      thuê muối khá cao.
            Các bến sông, đầu nguồn, đặt sở tuần tv để thu thuế.
            Dân Đàng Trong phải chịu các sắc thuế nặng nề mà thiên tai
      thất bát lại thường xẩy ra,  miền ven biển rất hay có bão lụt.  Nông
      dân đói khổ phải hỏ làng xã đi  lưu tán,  thế mà không hay nôi loạn
      như  ở  Đàng  Ngoài,  là  do  được  chiêu  mộ  đi  khai  khẩn  đất  hoang
       mới chiếm được.
            THUÊ Mỏ -  ở   đât  Quảng  Nam,  Thuận  Hoá có  mỏ vàng,  ở   đất
      Quảng Ngãi có mỏ bạc.  Đất Bố Chính,  mỏ sắt.  Các mỏ ấy đều phải
      đánh thuê cả.
            THUẾ XUẤT CẢNG, NHẬP CẢNG - Lệ cứ những tàu ở Thượng Hải
      và ở Quảng Đông lại,  phải nộp 3.000 quan,  đến lúc đi phải nộp 300
      quan,  tàu  ở Mã  Cao,  ỏ Nhật Bản lại  phải  nộp  4.000  quan,  đến lúc
      đi 400 quan.  Từ ở Xiêm La và ở Lữ Tông lại nộp 2.000 quan,  lúc đi
                                                                             357
   352   353   354   355   356   357   358   359   360   361   362