Page 98 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 98
DÂN SỔ
Các triều đình của ta xưa không Icàm kiểm kê dân số. Thường làng
nào biết dân số của làng ấy, mà cũng chỉ biết đại khái để dùng con số đại
khái ấy mà nộp thuế cho chính quyền. Các viên chức ở làng mới nương
theo đấy mà làm chuyện phù thu lạm bổ.
Theo LẠch Triều Hiến Chương của Phan Huy Chú năm 1660, vua Lê
có ban sắc dụ cho các làng lập tờ khai thật đííng dân số, lại nói rõ là
không truy thu những số thuế của ai nắm trước chưa khai, và thuế đinh và
điền vẫn chỉ lấy theo lệ cũ để cho thấy lượng khoan hồng của triều đình.
Vậy lý trưởng và quan huyện sở tại không được ẩn nặc, ai ẩn nặc sẽ bị
trừng phạt, còn những người nào cố ý giấu giếm dê’ không có tên trong sổ
bạ, khi có việc kiện tụng, các quan án sẽ không nhận đơn của họ.
Vậy mà cũng chẳng có kết quả dứng nào cả.
Năm 1773, nhà vua cho làm việc kiểm tra gắt gao thì dân chúng
xôn xao và có một người xưng là vua thuế nổi lên làm giặc, đến nỗi triều
đình phải bỏ không kiểm tra nữa.
Nay muốn tìm biết dân số ở thời Hùng Vương tại Phong Châu thì
thật là việc khó'" .
Có lẽ dân Giao Chỉ ở đồng bằng Bắc Bộ trong đời Hùng Vương rất
thưa thóft. Không hẳn vài chục người, thì cũng chỉ vài trăm người, đến số
ngàn là nhiều, ở lưa thưa trên các ngọn đồi, rồi trồng trọt hoa mầu và
sinh sản đông dần ra.
Không có những thiên tai như động đất, lụt nước, giặc giã, thì chỉ
một ngàn năm, đã thấy dân số từ trăm người lên đến triệu.
SỤ THÀNH HÌNH CỦA NHỮNG CÁI LÀNG
Những bộ lạc đến vùng có hang động, tức là có địa thế ẩn núp
chống chọi với thú dữ và giặc cưófp thì sẵn chỗ ở thiên nhiên rồi.
Theo tài liệu của Trung Hoa, đồng bằng Bắc Bộ ở đầu thế kỉ I có 92.440 nóc gia,
746.237 người . Sang cuối thế kỷ III có 25.600 nóc gia, khoảng năm 610, có 23.000
nóc gia và 85.000 dân, đầu thế kỷ thứ VIII có 30.000 nóc gia, năm 726 và 27.000
nóc gia năm 742, với 108.000 dân. Năm 807 có 28.000 nóc gia.
Những con số này đã không thể nào coi là đúng được, vì có đâu dân .số lại sụt
khi đáng lẽ phải tăng lén.
Theo lời dẫn của H.Maspéro, Nguyễn Trãi trong .sách Dư Địa Chí cho dân số ở
đời tiền Lê là 5.006.500 tráng dinh, đời Lý là 3.300.100 và đời Trần là 4.900.000
tráng đinh, còn toàn dân là khoảng 15.000.000.
Mặt khác, khi nhà Minh xâm lăng nước ta năm 1408, tướng Trương Phụ có ghi
số dân là 3.120.000 người Việt, và 2.087.500 người Thổ, Mán, Mường, ở sơn cước.
103