Page 71 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 71

"N^ữ âm tru li,  vị thiên  viết hột mạt, địa  viết vến, nhật viết phù hột
      mạt, nịịiiyệt viết hột văn, phong viết giáo,  vân  viết mai, sơn  viết can ngồi,
      thuỷ  viết lược, nhãn  viết mạt, khẩu  viết mạnh, phụ  viết chú,  mẫu  viết ná,
      nam  tử viết can da,  nữ tử viết can úi, phu  viết chùng,  thê  viết đà hị,  hảo
      viết lĩnh,  hất háo  viết chương lĩnh, đại tuất loại  thử thanh  cấp  như phù,
      dại tựdiểu ngữ”.
            (Tiếng nói của dân Tru Li  , gọi trời là bột mạt, đất là yến, mặt trời là
      phù  bột  mạt,  mặt  trăng  là  bột  văn,  gió  là  giáo,  mây  là  mai,  núi  là  can
      ngỗi,  nước  là  lược,  mắt  là  mạt,  mồm  là  mạnh,  cha  là chá,  mẹ  là  há,  con
      trai  là can đa,  con  gái  là can  ái,  chồng  là chùng,  vợ là đà bị,  tốt  là  lĩnh,
      không  tốt  là  chương  lĩnh,  cả thảy  giọng  như  thế,  tiếng  nói  gấp  mà  nổi,
      phần lớn giống như giọng chim).
            Trong  18 tiếng mà người chứng ở thế kỷ xin dẫn ra, thì có 11 tiếng
      hiện ta còn  dùng  là gió, mây, nước, mắt,  miệng, cha,  nạ, con gái, chồng,
      lành, chẳng lành, còn 7 tiếng kia chưa đoán ra dược.
            Như vậy để cho  thấy  vẫn  còn  những manh  mối  tìm  về  những  tiếng
      gốc và âm gốc.

      KHẢO VỂ NHŨNG ÂM (ỉố c

            Trước  hết  chúng  tôi  thấy  cần  đính  chính  sự  ngộ  nhận  của  nhiều
      người cho rằng tiếng Việt của ta có  11  âm gốc theo mẫu tự La Tinh là a,
      ă, â, e, ẽ, i, o, ô, ơ, u, ư.
            Những mẫu âm tự này có được dùng để diễn  11  âm ấy của ta, cũng
      như khi  xếp đặt  những  mẫu  tự ấy trước  sau và xếp đặt  thêm với  các  phụ
      âm  cuối  nữa,  cùng  thêm  các  dấu  giọng  là  để  diễn  các  âm  khác.  Chứ
      không phải chúng là gốc sinh ra các âm khác.
            Vì  nhận  xét  của chúng  ta  bị  chi  phối  bởi  lọi  ghi  âm  của chữ quốc
      ngữ nên chúng  ta đã dễ nhận  lầm như đã nói.  Nếu chúng ta tưởng tượng
      ràng không có chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh, và chúng ta để ý rằng
      xưa nay người  Việt chúng ta vẫn phát âm:  i, ác, ìm, uông, ái  ...  như a, e,
      ê vậy, thì chúng ta phủi  nhìn nhận sự đồng giá của các âm, và  11  âm kia
      đã không hề bao giờ là gốc sinh ra các âm khác.
            Chúng ta nên tỏ ý kính phục cái tài thu xếp khéo léo của những nhà
      sáng chế ra chữ quốc ngữ, chỉ bằng một số tối thiểu những chữ dùng làm
      dấu  hiệu  mà  ghi  được  hết  mọi  âm  trong  tiếng  ta,  dùng  sự  sáng  chế ấy,
      thực ra chỉ  là tham  khảo kĩ những  cách  ghép vần  đã có từ trước  của các
      tiếng châu Âu.

                                                                              75
   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76