Page 69 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 69
CHƯƠNG V
CHỮ VIẾT VÀ TIẾNG NÓI
iO M LƯỢC
Chữ viết
Nhiều người cho những chữ hoả tự còn lại ở Châu Quan Thanh Hoá
của người Mưòfng bủy giờ là chữ cổ của người Giao Chỉ. Nhưng sự nghiên
cứu chưa đến nơi, không rõ chép ở đâu, trường hợp nào, những chữ ấy có
nghĩa gì, có nhiều cổ vật nào khác thấy dấu chữ ấy không? ... nên chưa
thể nhận được.
Tiếng nói
Cần người thạo tiếng Mường nghiên cứu tìm những tiếng gốc của
hai bên xem có chỗ giống nhau chăng.
Phần tiếng của ta thì còn một tài liệu của sứ thần nhà Nguyên ở thê'
kỷ XIII, nhấc đến nhiều tiếng mà nay vần còn dùng.
Những âm gốc
Có 900 âm Việt thuần tuý. Nhưng có 644 âm chưa được dùng tuy
người Việt vẫn phát âm được. Sô' âm còn lại và thường dùng là 256.
Trong số những âm này, không kể những âm tượng thanh làm ra những
tiếng tưọĩig thanh (mà tiếng nước nào cũng có) đã có 204 âm tượng hình
gồm 22 bộ để tạo nên những tiếng tượng hình. Khi nói lên thì người nghe
nhận ra chiều hướng, hình dáng, động tác, các vật và việc, cả mùi vị, màu
sắc, phong thái, là những gì trừu tượng nữa.
Bởi vậy có quyền nói tiếng Việt là tiếng tượng hình mà danh dự
sáng tác ra bộ tiếng nói ấy của người Việt đã không kém gì danh dự của
người Trung Hoa đã sáng tác ra chữ tượng hình.'
CHỮ VIẾT
Trong một quỳển sách nghiên cứu về Thanh Hoá hồi tiền chiến là
Thanh Hoú Quan Phong của Vương Duy Trinh, ta thấy những chữ mà tác
71