Page 304 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 304
(Kiếp này) hoá Ihàn sinh ở Nhật Nam
và đã thoát vòng phiền não của cõi tục.
(Đi xuống) dưới núi (thì thấy) toà già lam
Cất ở nơi ngọn núi đá cheo leo
Dưới có một khe nhỏ nước chảy lững lờ
Chim xanh còn non yếu ngồi chầu hầu (khi ngài)
tham thiển
Vượn trắng (đã già) thì lắng nghe lời giảng kinh
thông suốt (của ngài)
Mây quấn quít lấy vách đá dựng (không muôn rời ra)
Hoa (rụng) dưới chân núi (còn) vương vấn trong đầm
(không chịu trôi đi)
Suối chảy từ nguồn xa.trong vắt
(lại sán) cây rừng để hong áo giặt (cho hết bụi trần)
Đệ tử thật lấy làm đáng thương mà không biết
Và tiếc không được hầu chuyện Y vương
(trước) dòng nước phẳng lặng ở khe Hổ Khê
(mà trên là) khí núi bốc lên khoáng hư không, (đệ tử
chỉ được đứng như) một thân cây (buồn tủi)
Một nhà thơ khác là Trương Tịch cũng có bài thơ sau đây tặng
Nhật Nam tăng:
Dộc hướn^ sơn trung lão
Tùng môn bổ lưỡng nhai
Phiên kinh thượng tiêu diệp
Qiiâi nạp lạc đằng hoa"'
Thứ thạch tân khai tỉnh
Xiivên lâm tự chủng ma"'
Thời plìùní’ Nam Hải khách
Man m>fí ván thuv gia?
Bài thơ có nghĩa là:
Một mình ông cụ già tu ở trong hang núi.
Có hai cây tùng đứng trấn lối vào động'‘’
Kinh Phát hiên trên tàu lá chuỏT^’
( I I
Sách Lịch sửtưtựàníỊ Viêt Nam của Nguyễn Đăng Thuc trang 83 chép là Bài nạp
và tự chúng trà, e rằng tập Toàn Đường Thư chép sai. v l bài iTbầy xếp không noi
đưỢíi: ý dây hoa như cnuoi ngọc treo làm áo nhà tụ. Và trà chỉ là một loại cây dùng
uốiig chơi, không hàm dươc y giống gai may áo dể dcm sắc phục chò loấi người.
*■’ hnếu hình thức rằng có liai canh cỉra tùng đóng lại là sai.
Tức là ngài nhìn tầu lá chuối bay lật đi lặt lại ííià đọc được lời kinh Phật.
316