Page 299 - Việt NamVăn Minh Sử
P. 299

Dù trước con mắt lệch  lạc về chủ nghĩa thực dụng nào đi  nữa, cái danh dự
    xã  hội  ấy  cũng  vẫn  hơn hình  ảnh  cúa nhứng “anh  chị  chiến  sĩ hữu  vi  và
    tích cực” lắm, nhưng dể day tay mắm miệng và mưu mẹo xúi giục kẻ này
    người khác nghi ngờ, tranh đấu và căn hờn, thù oán lẫn nhau.
          Cho nên từ chu kỳ  lịch sử lấy đạo đức làm cơ bản cho cuộc sống về
    mọi khía cạnh của xã hội, tiến sang một chu kỳ lịch sử lấy kinh tế làm hạ
    tầng  cơ  sở,  lấy  văn  hoá  đạo  đức  làm  thượng  tầng  kiến  trúc  và  nghĩ cho
    vãn  hoá  ấy  bị  quy  định  bởi  cái  hạ  tầng  cơ sở về  kinh  tế kia.  ta  có  cảm
    tưởng như loài người đương rủ nhau lao mình xuống vực thẳm.
          Biết baò nhiêu sự đđy ải  lẫn nhau đã xảy ra giữa loài người kể từ giờ
    phút dáo  lộn ấy.  Biết  bao nhiêu nhục nhã mà loài  người  đương phải  chịu
    dựng chỉ vì những  giá trị tinh thán cũ bị  mai  một hết đi dế cho những giá
    trị  vật  chất  múa  may  quay  cuồng  mà  dẫn  dắt  xã  hội  từ  hết  tội  lỗi  này
    sang tội  lỗi khác trong cái vòng vô minh càng lúc càng dày đặc.
          Song điều đáng sợ cho xã hội loài người chẳng phải là sợ mất ngôi thứ
    của một nhà tu hành. Nhà tu ấy dã vong kỷ thì còn giới ý gì tới sự người ta
    trọng hay khinh, yêu hay  ghét mình? Điều đáng sợ cho xã hội loài người Icà
    sự mất lòng tin ở phần lốt của nhau và còn lòng tin của phần xấu của nhau.
    Một xã hội mà đến như thế là một xã hội đã sa đoạ cùng cực.
          Bởi  vậy  ta  kể  sự  xây  dựng  nền  móng  Thiền  tông  như một  biến  cố
    trọng dại.




          Trong tạp chí Tư tưởìiiị số I, tháng 3  -  1972, cơ quan ngôn luận của
    Viện Đại  học Vạn  Hạnh,  Lê  Mạnh Thát, trong  bài: Góp vào việc Nohiên
    cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam thếk\' thứ năm, có dựa vào sách Tục Cao
    Tăng Truyện  của Đạo  Tuyên  người  Tàu,  viết  xong  khoảng  645,  và  nhận
    ra  tiêu  sử hai  vị  cao  tăng  của  ta  người  Giao  Chỉ,  là  Huệ  Thắng  và  Đạo
    Thiền. Hai vị này sống đồng thời với tổ Bồ Đề Đạt Ma.
          Huệ  Thắng  sinh  khoảng  432  -  439,  tu  ở chùa  Tiên  Châu  Sơn  theo
    học quán  hạnh với luận sư Đạt Ma Bồ Đề. Năm 479, Lưu Hội của nhà Tề
    cử binh  ra lấy Nam Hủi  cỏ nghe tiếng dã mời  khéo Huệ Thắng về Giang
    Đô.  cho đến  tu  ớ chùa  u  Tê,  núi  Ngưu  Đầu  huyện  Thượng  Nguvên,  rồi
    sau đó  8 năm  lại  về chùa Duyên  Hiền, núi Chung Sơn.  Sau tịch không rõ
    ở đâu thọ 70 tuổi.
          Đạo  Thiền  sinh  khoang  457,  mâ't  năm  Đại  Thông,  đời  Lương  Vũ
    Đế,  khoáng 527,  cũng  tu ở chùa Tiên  Châu Sơn.  Năm 487, Tử Lang con
    vua  Tề  Cao  Tổ  qua  triệu  thỉnh  ngài  vể  Kim  Lăng  giảng  nói  Phật  pháp.
                                                                          311
   294   295   296   297   298   299   300   301   302   303   304