Page 63 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 63
nên suy đồi, song những hóa vật ấy là hàng nước Pháp
và hàng ngoại quốíc nhập khẩu, chứ không phải do công
nghệ cơ khí ở trong nước chế tạo. Công nghệ tân thức ở
nước ta, vì muôn tránh sự cạnh tranh với công nghệ
nưóc Pháp nên chỉ chuyên về mặt nguyên liệu và vật
liệu bán chê mà thôi.
Việc khai mỏ đòi xưa nhà nước vẫn thường chú ý,
song vì cách khai quật đơn giản vụng về nên không
phát đạt. Ngày nay các nhà công nghệ Pháp bỏ nhiều tư
bản, dùng nhiều máy móc, kinh dinh những sở mỏ rất
lớn, như các mỏ kẽm ở chặng giữa sông Chẩy và sông
Nhị, và ở tỉnh Bắc Cạn (Bắc Việt), mỏ thiếc ỏ tỉnh Cao
Bằng (Bắc Việt) và miền Cammoun (Ai Lao) mỏ chì, mỏ
vàng, mỏ sắt, mỏ phốt phát ở nhiều nơi khác. Song
những sở mỏ phát đạt hơn hết cả là các mỏ than ỏ Bắc
Việt, nhất là ở miền từ đảo Kébao đến Đông Triều. Một
mình sở mỏ than ở Hongay của Société des
Charbonnagas du Tonkin, năm 1930 khai được
1.890.000 tấn. Song công nghệ ở trong nước chỉ tiêu thụ
được 1 phần 4 sô" than khai được, nghĩa là từ 4 đến 6 ức
tấn mà thôi. Những sở công nghệ thường lập ở gần các
mỏ than để tiện sự dùng chất đốt, cho nên các nhà máy
lớn nhất trong nước là ỏ vào miền trung châu Bắc Việt,
nhất là Hải Phòng, Hà Nội và Nam Định. Sở xi măng ở
Hải Phòng xuất cảng đi khắp các nước Viễn Đông, còn
các sở máy sỢi và máy dệt ở Hải Phòng, Hà Nội và nhất
là Nam Định thì cung cấp sỢi vải cho cả nưóc.
Trong các công nghệ tân thức khác một phần trọng
yếu là chê biến những vật nông sản, như các sở máy
gạo, máy rượu ở Bắc Việt và Nam Việt. Ngoài ra những
65