Page 43 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 43
năm phân thì người ta dùng gàu giai, do hai người tát.
Nếu cần tát nước vào ruộng được một phân, thì một
mẫu ruộng phải cần hai người làm việc trong tám ngày
rưỡi. Nhưng ỏ các nơi ruộng cao, cần phải đem nước lên
nhiều nấc, thì nhân công lại nhiều hơn.
Ổ trung bộ và nam bộ Trung Việt người ta dùng xe
đạp nưốc (noria à pédale) chỗ ruộng thấp thì dùng một
cái, chỗ cao thì chia nhiều bậc, mỗi bậc mỗi cái.
Việc tát và đạp nước nặng nhọc lắm, cho nên người ta
thường làm ban đêm, nhất là những hôm có trăng.
0 ít nhiều miền, người ta dùng một thứ bánh xe nước
chạy bằng sức nưóc sông. Những xe nưóc to nhất là ở
Quảng Ngãi có cái đường kính đến 10 hay 12 mét.
Người ta đắp đập ngang sông cho nưóc chảy mạnh
thêm, rồi đặt bánh xe nưóc ỏ giữa dòng. Xung quanh
bánh xe có những ống tre để múc nước dưới sông rồi
theo bánh xe quay lên trên, đổ nưóc vào một cái máng.
Nước ở máng chảy vào các mương, rồi cứ thê mà chia ra
các ruộng. Những vật liệu làm bánh xe ấy đều là thô
sản; gỗ, tre, dây chão. Trước mùa nưốc lụt thì những
bánh xe và máng nước ấy phải tháo cất đi, cho nên
trong mỗi miền cần phải có những người sành nghề, để
làm, sửa đặt những khí cụ ấy.
Việc đào sông khơi ngòi để cho dân dễ lấy nưổc vào
ruộng, các triều vua xưa vẫn để ý đến, tiếc vì sử sách
chép rất vắn tắt. Từ khi nước ta ở dưói trị quyền nưóc
Pháp công cuộc dẫn thủy ở Bắc Việt và Trung Việt mỗi
ngày một khuếch trương thêm. 0 miền hạ bạn Bắc Việt
vốh có sẵn nhiều sông ngòi đào, có cửa nước để giữ nưóc
mặn khỏi tràn lên, người nhà quê vẫn dùng nước ngọt ở
45