Page 38 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 38
riêng, khiến người ta phải tùy mùa tùy đất mà trồng, ví
như có lúa muộn, lúa sớm, có lúa nưóc mặn, lúa nưóc
lụt, có lúa đồng cạn, lúa đồng sâu V.V..
Về phép cấy lúa, người ta lại tùy mùa, tùy đất mà cấy
dày hay thưa, cấy khóm to hay nhỏ. Sự cấy lúa làm cho
đỡ tốh giống mà cây lúa lại dễ mọc. Nó lại có lợi nữa là
những ruộng cấy, sau mùa gặt còn có thể trồng một lớp
hoa mầu để chò cày cấy mùa lúa sau, cho nên có khi
một thửa ruộng có thể làm được ba bôn mùa. Phép đúc
mộng và phép vãi mạ lại càng tinh xảo nữa, nhất là
cách trang mặt nương để tròi mưa khỏi trôi giống hay
để tránh cho nước đừng đọng lại trong nương mà làm hư
giống.
Cách cày bừa thì kỹ càng lắm. ớ Bắc Việt và bắc bộ
Trung Việt, lớp đất dưói không tốt nên thường cày cạn,
dùng cày nhẹ và lưỡi nhỏ, còn ở trung bộ và nam bộ
Trung Việt thì cày sâu, cho nên dùng cày nặng và lưỡi
to. Có nhiều nơi như Nam Định và Thái Bình sau mùa
tháng mười người ta cày rồi xếp đất lát cày thành từng
đông để phơi đất cho khô. Người ta nghiệm rằng cách ấy
làm cho đất tốt thêm gấp bội.
Dân quê cần dùng phân để thêm sức đất, nhưng vì ít
tiền không mua phân được nên phải nghĩ ra nhiều cách
làm phân rất tài. ớ nhà quê, người ta giành nhau kiếm
phân lợn và phân trâu bò khắp mọi nơi để bón ruộng.
Họ dùng tất cả những chất hữu cơ như xác cá mắm, khô
dầu, nhộng tằm chết, bã chàm, tro rơm. Họ lại dùng
nhiều thứ phân cây hay phân bồi, như phân lá thầu
dầu, lá xoan, lá sắn, dây khoai, dây đậu và lục bình.
Nhiều chỗ người ta dùng bèo ở ao hồ hay rong ở sông để
40