Page 42 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 42
sông mới, hoặc là phá hẳn cả đê để cho nưóc lụt bồi cao
những vùng đồng thấp, đòi xưa đã từng có người khởi
nghị, cùng là trồng cây đê giữ nước mưa, đào đập đê
ngăn nưóc sông, các phương sách ấy đều bị bác cả. Hiện
nay Chính phủ định phải bồi bổ đê cho cao hơn mực
nước lụt cao nhất, và mặt đê ở trên phải rộng được 7
mét. Nhưng đối với một hệ đê có hơn 2000 kilômét, thì
việc bồi bổ ấy không phải là dễ dàng.
Ngày xưa việc đắp đê là việc công ích, cứ bắt dân phu
đi làm. Ngày nay có thầu khoán lãnh trưng nên những
người làm đê là lao động ăn công. Song những khi khẩn
cấp như mùa lụt mà đê gần vở, thì các dân phu cũng
phải xuất lực mà bảo hộ lấy đê. Nhờ Chính phủ và nhân
dân hiệp lực để kiểm soát và hộ vệ đê điều cho nên ngày
nay nạn lụt cũng đã hơi giảm bớt.
Dẫn thủy - Ruộng lúa cần phải có nước luôn luôn, cho
nên từ thượng cổ dân ta đã lo tìm cách đem nước vào
ruộng. Không rõ buổi đầu người ta dùng những phương
pháp gì, song ta có thể chắc rằng những cách tát nước
và dẫn nước người nhà quê thường dùng ngày nay đã có
từ lâu lắm.
Hiện nay người nhà quê thường lấy nước ở các vũng,
ao, hồ và sông bằng sức người, chứ không hề dùng sức
súc vật, vì súc vật chỉ đủ để cày bừa thôi, ớ các nơi mặt
nước không thấp hơn mặt ruộng mấy người ta dùng gàu
kèo hay gàu sòng. Một người tát nưóc mỗi ngày làm việc
bảy giò thì có thể tát được một thước khối. Nếu phải tát
nước vào ruộng cho được một phân, thì một mẫu ở chỗ
tát nước dễ dàng hơn hết, cũng phải tốn bốn ngày công.
Nếu phải tát nước lên ruộng cao hơn mặt nưốc trên bôn
44