Page 45 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 45

sông  Ba  Xắc.  Đòi  xưa,  người  Việt  Nam  và  người  khách
      trú  vào  khẩn  hoang  ở  Nam  Việt  đã  đào  được  ít  nhiều
      sông ngòi nhưng từ khi Nam Việt thành thuộc địa Pháp
      thì nhà nưóc lại đào thêm sông mới, hoặc sửa lại sông cũ
      để  cho  nông  dân,  nhân  tiết  độ  của  thủy  triều  mà  tháo
      nước  những  nơi  đồng  lầy  nước  đọng  và  đem  nước  vào
      những chỗ cạn khô.
        Trong  khoảng  mười  năm  1890-1900  mỗi  năm  lượng
      đất  khơi  sông có  đến  824.000  thước  khốỉ;  trong  khoảng
      mười  năm  1920-1930,  lượng  trung  bình  đất  đào  mỗi
      năm là 7.233.000 thước khối.  Hiện nay những sông ngòi
      chính  có  đến  1500  kilômét,  còn  các  sông  ngòi  nhánh
      cũng  đương  mở  mang  lần.  Kết  quả  của  công  cuộc  khơi
      sông  ấy  to  lón  thế nào,  cứ  xem  hồi  năm  1880,  ruộng  ở
      Nam  Việt  mói  có  400.000  mẫu  tây  mà  đến  bây  giò  có
      trên 2 triệu mẫu thì đủ biết.


                         Chính sách canh nông

         ở  nước ta nghề nông là bản nghiệp của nhân dân,  mà
      nhà  nưóc  cũng  nhò  vào  đó  mà  trù  quốc  dụng,  cho  nên
      đòi nào nhà nưóc cũng thi hành chính  sách trọng nông.
      Lịch triều thường có  sắc khuyên nông và thường lo việc
      đê  điều  và  thủy  lợi  để  bảo  hộ  và  khuếch  trương  nông
      nghiệp.  Những năm  m ất mùa  lịch  triều  có lệ  giảm  hay
      miễn  th uế để  dân  quê  đỡ  khổ.  Thỉnh  thoảng  nhà  nước
      lại  dùng  phép  hạn  điền  và  quân  điền  để  cho  quyền  sở
      hữu khỏi chênh lệch nhiều.  Đòi Trần các người tôn thất
      thường sai đầy tớ ra những miền đất bồi bờ biển,  đắp đê
      một  vài  năm   cho  hết  nước  mặn,  rồi  khẩn  thành  ruộng


                                                                  47
   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50