Page 41 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 41
vua Trần Thái Tôn (1244-1258) sai quân các lộ đắp đê ở
hai bên sông Nhị và đặt quan Hà Đê để coi sóc đê điều.
Vua Lê Thánh Tôn (1460-1497) cũng đặt quan Hà Đê.
Vua Gia Long (1802-1819) mới lên ngôi đã lo cuộc trị hà,
truyền cho các trấn phải giữ gìn đê điều, chỗ nào không
có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa lại.
Những đòi Minh mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức có đến năm
bẩy lần hội nghị về việc đê, khi thì hỏi địa phương quan,
khi thì hỏi đình thần. Nhưng sở kiến bất đồng, sau lại
phải treo bảng ra các nơi để trưng c ầ u . chính kiến.
Người thì bàn giữ đê, người thì bàn phá đê người thì chủ
trương đào sông mới, rốt cuộc rồi triều đình lại phải đắp
thêm đê. Thực ra thì các đê của lịch triều ta đắp không
được vững vàng, không đủ sức mà chống lại sức nưóc lụt
to. Vả chăng người Việt Nam không từng nghiên cứu
khoa động thủy học cho tinh, mà cũng không biết lợi
dụng kinh nghiệm của các nước giỏi về việc trị thủy, cho
nên đê điều đắp được nhiều nơi mà cứ vỡ luôn. Người ta
tính rằng ỏ tỉnh Hưng Yên, từ năm 1800 đến năm 1900
có đến 26 lần vỡ đê. Nhưng từ năm 1902 đến năm 1921
lại có đến 13 lần vỡ đê. Xem thế thì tuy từ khi có cuộc
bảo hộ, vấn đề trị thủy có sở chuyên môn của Chính phủ
đảm đương mà đê cũng không thấy vững hơn. Thực ra
thì đê điều ở Bắc Việt vốh chưa đủ vững mà chốhg lại
sức nước lụt m ãnh liệt của sông Nhị, cho nên ở giữa
những ý kiến phân vân sau trận lụt khốc hại năm 1926,
Chính phủ phải đành theo phương pháp trị thủy ở sông
Pô (Ý Đại Lợi) và sông Missisipi (Hoa Kỳ) mà đắp đê
cho vững vàng hơn trước; còn những phương sách này
nọ người ta đề xướng như khơi ruộng sông cũ, đào thêm
43