Page 50 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 50

làm  việc  công  thì  dân  không  có  quyền  đòi  bồi  thường.
     Đòi  Trần  Thuận  Tôn,  Hồ  Quý  Ly  định  phép  hạn  điển,
     bắt  ai  có  quá  10  mẫu  phải  nộp  số dư  làm  ruộng  công,
     cùng các đòi khác có phép phân điền,  quân điền cũng là
     do nguyên lý ấy.
        Nhà  vua  có  chủ  quyền  tối  thượng  (droit  éminent)  về
     thổ địa, nhưng thường thường nhà vua cho xã thôn hoặc
     đoàn thể khác được quyền hưởng dụng, tức là công điền,
     công thổ.  Khi nào có nhân dân xin phép dựng làng, nhà
     vua  thường  cấp  cho  một  khoảnh  thổ  địa  để  làm  của
     chung.  Những sở đồn điền ngày xưa,  khi đã thành thục,
     nhà vua cũng thường để một phần làm của công của xã
     thôn.  Những công  điền  công thô  ấy  không  được  bán  đi,
     trừ ra gặp buổi cơ cận tai hoạn dữ lắm thì xã thôn có thể
     xin phép tạm  cầm  trong hạn ba  năm.  Những ruộng đất
     công ấy là của nhà vua cho xã thôn được hưởng lợi,  nên
     xã  thôn phải nộp  địa  tô  thường cao hơn  thuê  ruộng đất
     riêng.  Những khẩu phân  điền cứ ba  nàm  một lần chiếu
     sô" đinh  của  làng  mà  chia  cho  dân,  cùng  những  lương
     điền  để cấp cho binh  lính  đều  là công điền.  Những làng
     giàu  có  lại  còn  có  những  hạng  công  điền  khác  như:  trỢ
     sưu điền để giúp cho dân nghèo một phần sưu, học điền
     để  lấy  hoa  lợi  mà  nuôi  thày  học  và  mua  giấy  bút  cho
     chức  dịch  trong  làng;  cô  nhi  điền  và  quả  phụ  điền  để
     cứu giúp những kẻ mồ côi góa bụa. Ngoài ra xã thôn còn
     có những bổn thôn điền là ruộng của xã thôn xuất công
     quĩ mà mua lại của  tư nhân,  hoặc  thay cho tư nhân  mà
     nộp  thuế.  Những  ruộng  ấy  có  thể  bán  hoặc  cầm  được.
     Còn  hậu  điền  là  ruộng  của  những  người  tuyệt  tự  cúng
     vào  đình  (mua  hậu  đình)  hay  chùa  (mua  hậu  chùa)  để


     52
   45   46   47   48   49   50   51   52   53   54   55