Page 335 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 335
tục"^'^ cho nên phàm người ngoại quốc đến cầu thông
thương giao hảo đều nhất thiết từ chối, còn đốỉ với giáo
sĩ và tín đồ Cơ đốc giáo thì hết sức cấm ngăn, ở thòi kỳ
thế kỷ 19 này, cũng như ở thời kỳ trước về th ế kỷ 17, 18
vua quan Việt Nam có dung nạp người Ảu châu là chỉ
cốt lợi dụng võ lực của họ, đến khi hoặc không lợi dụng
được, hoặc không cần lợi dụng nữa, thì lại đổi ngay thái
độ, chứ không phải có nhận thấy chỗ sở trường của văn
hóa âu tây mà hoan nghênh.
Sau khi nưốc Pháp chinh phục Nam Việt làm thuộc
địa. Bắc Việt và Trung Việt làm xứ bảo hộ, tuy về võ lực
và chính trị thì vua quan đã chịu áp phục, tuy cuộc c ần
vương khởi nghĩa đã thất bại rồi, thế mà nhân sĩ trong
nước vẫn không chịu nhận những sở đoản của văn hóa
xưa mà dung nạp văn hóa tây phương. Bấy giò những
kẻ theo Chính phủ Pháp, học chữ Pháp hay chỉ học chữ
quốc ngữ, đối vối sĩ phu và nhân dân đều bị xem là kẻ
phản quốc vong tổ. Mà thực ra những hạng người ấy,
học võ vẽ được ít nhiều tiếng Pháp, có thể làm "thông
ngôn" được, là được Chính phủ Pháp tin dùng mà cất
nhắc lên những địa vị cao quí, phần nhiều là kẻ bất
lương là bọn tiểu nhân đắc chí, cho nên thấy vậy, sĩ phu
và nhân dân lại càng thêm kỳ thị âu hóa thêm.
Mãi đến đầu thê kỷ 20, thấy Nhật Bản học theo phép
phú cường của Âu Mỹ mà đánh được Trung Quốc là
Dụ cấm đạo năm 1825 của Minh mệnh: "Đạo rốì của ngưòi Tây làm mê
hoặc lòng người. Lâu nay nhiều chiếic tàu Tây đến buôn bán và đưa những
giáo sĩ gia tô vào nưóc ta. Giáo sĩ ấy làm tà vạy nhân tâm phá hoại mỹ tục,
thiệt là mốì hại lổn cho nưóc nhà. Bỏi vậy trâm phải lo trừ tuyệt những sự
tình tệ đó, hầu giữ gìn dân ta không lầm lạc chính đạo. Khâm thử" (Việt
Nam tây thuộc sử).
1
337