Page 167 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 167
cải, rau diếp, rau dền, rau đay, rau mồng tơi, rau
muông, rau ngổ, đậu, cà, khoai, sắn V .V ..) thịt các thứ
gia súc (gà, vịt, lợn) và thỉnh thoảng thịt trâu bò cùng
một ít gia cầm dã thú đánh hoặc săn được (cò, chim
nghịch, mỏ nhác, le le, cun cút, đa đa, hươu nai, chồn
cáo, thỏ, lợn rừng). Thực ra thì người nhà quê ít ăn thịt
cầm thú, có người suốt năm chỉ những ngày tế tự ở nhà,
hay những ngày việc làng ở đình thì mối được ăn một
chút thịt. Những ngày giỗ tết, hay hội hè đình đám ấy
thì khi tê xong thê nào cũng có cỗ bàn, có xôi oản, các
thứ bánh mặn bánh ngọt và cá thịt nấu theo những
cách đặc biệt rất ngon. Những nhà sang trọng thì dùng
sơn hào hải vị*'^ nấu toàn các món đồ Tàu. Nhà nghèo
khổ bao nhiêu cũng gắng kiếm con gà giò hay miếng
thịt lợn đem luộc lên mà cúng tổ tiên, về việc làng thì
những người đinh tráng đàn em tuy không được dự
những mâm cao cỗ đầy như các cụ lão nhiêu và chức
sắc, nhưng ít nhất cũng được một miếng thịt và một
nắm xôi đế bù lại chút đỉnh sự ăn kham khổ cả năm.
Những đồ uống của dân ta thường dùng là nước lạnh
(lã) nước VỐI, nưóc chè (chè xanh, chè hạt, chè mạn, chè
tàu) nước lá mùng năm và rượu gạo. Những rượu ướp hoa
sen, hoa cúc, hoa hồng, hoa cau, hoa lài gọi là rượu hoa,
tựu trưng quí nhất là rượu sen, rượu cúc. Lại có một thứ
rưỢu nếp hoặc rưỢu cái làm bằng gạo nếp ủ men rồi để cả
cái mà ăn.
Khi uống rưỢu thường hay dùng đồ nhắm như nem,
chả, thịt nướng V .V ..
Da tê, gân hưdu, hùng chưởng, yến sào, bào ngư, hải sâm, bong bóng,
vây v.v...
169