Page 192 - Quan Hệ Bang Giao Và Những Sứ Thần Tiêu Biểu
P. 192

Ọ u a n   Itc  Ịyan<ỉ ịịia o   rà   các  sử  tììần  tiêu  lùctí...  193

     các phủ, tự hậu đình hô D I tự xưng AN  NAM quốc sứ... ” (Văn
     này  rất  hay,  nói  rất  đúng  lí.  Nhưng  lời  xưa  đã  nói:  vua
     Thuấn  sinh  đất  Gia  phùng,  là  người  mọi  phía  đông;  vua
     Văn  vương sinh  đất  Kỳ Chu, là người  Mọi phía Tây.  Dùng
     chữ  Di  vốn  không  phải  để  kinh  nhờn  Quý  quốc.  Nay  sứ
     thần đã đem sự này bày tỏ nên lời thì đã được nhờ ơn quan
     Tuần  vũ  bằng lòng  nghe.  Đã gửi  một  ống công vãn  truyền
     cho đạo Tả giang và các phủ, dặn từ rày về sau đừng hô chữ
     DI nữa, và gọi là cống sứ nước AN NAM. Sứ có thể về nước
     thưa với Quốc vương được rõ...)
         “Dứ tiết này,  chúng tôi trộm xem quan  Trung Quốc có lòng
     kính  trọng Bản  quốc,  dĩ cập kv sứ (vì  đó  trọng  cả  sứ ta).  Từ
     ngày  chúng tôi tiến  Kinh,  Hồ  Nam,  Hồ  Bắc, An  Huy,  Giang
     Nam, Sơn Đông, ngũ tỉnh ấy, quan  Tống đốc,  Tuần vũ đều đặc
     ủy thuộc liêu, quan viên hộ tống. Khi khới lục, thì duyên đồ châu
     huyện bôn tẩu cung ứng, trương mạc kết thể (khi lên bộ thì dọc
     đường các quan  châu  huyện  chạy cung cấp đồ ãn  đồ dùng,
     trương màn kết vải màu để đón rước). Khi vào triều hạ (chầu
     mừng vua Càn Long) thì quan Nội các, Lục bộ đại-thần đều tựu
     vấn,  hitu  lời  tưởng lao  (tới  hỏi  thăm,  có  lời  khen  lao).  Mấy
     (với) như cống sứ Cao Li cống sinh nước Lưu cầu, gặp chúng tôi
     cũng hỏi han thư từ vãng phục. Kẻ thì rằng lập chí trung hậu, kẻ
     thì rằng Văn vật chi thịnh. Chúng tôi đều tùy sự đối đáp.  Chuyện
     đối lù sứ thần chức phận, chúng tôi không dám ghi lai lịch phiền
     độc (kể chi tiết làm nhàm tai).
         '"Chúng tôi bồi thần tam viên, với hành nhân cửu danh, tùy
     nhàn  thập  tam  danh  (ba  sứ  thần,  9  phái  viên,  13  tùy  phái)
     muôn nhờ hồng phúc đều được bình ninh.  Như môn tủ (con em)
     chúng tôi cũng có đem sang, củng đều được mạnh khoẻ cả. Chúng
     tôi gứi dộng (tâu) lạy BÈ TRÊN muôn muôn năm.  Tư cẩn khải
     (nay kính thưa)”.
   187   188   189   190   191   192   193   194   195   196   197