Page 77 - Phát Triển Thị Trường Bán Lẻ Hàng Tiêu Dùng
P. 77
Thực trạng thị trường bán lẻ… Việt Nam giai đoạn 2011-2020 77
dựng (CNXD) và dịch vụ. Cụ thể, tỷ trọng hộ NLTS khu vực NT
năm 2011 là 62,2%, giảm so với 71,1% của năm 2006 và 80,9%
của năm 2001; tỷ trọng hộ CNXD của các năm tương ứng lần lượt
đạt 15%, 10,2% và 5,76%, tỷ trọng hộ dịch vụ đạt 18,4%, 14,9% và
10,6% trong 3 năm tương ứng. Nếu gộp cả hai nhóm hộ CNXD và
dịch vụ thì tỷ trọng 2 khu vực phi NLTS từ 2006 - 2011 đã tăng
thêm 8,3% (từ 5,1% lên 33,4%). Nếu so với năm 2001, tỷ lệ này ở
năm 2011 đã tăng thêm 17,1% (từ 16,3% lên 33,4%), còn tỷ trọng
hộ NLTS giảm 18,8% (từ 80,93% xuống 62,15%).
+ Nếu tính theo vùng kinh tế, tốc độ chuyển dịch cơ cấu
ngành nghề hộ nông thôn từ NLTS sang CNXD và dịch vụ rõ nét
nhất xảy ra ở vùng Đông Nam bộ và tiếp theo là Đồng bằng sông
Hồng. Ở hai vùng này, số hộ NLTS đều dưới 50% tổng số hộ dân
nông thôn, đặc biệt vùng Đông Nam bộ chỉ chiếm chưa đến 40%.
Đông Nam bộ cũng là vùng có số hộ CNXD đạt tỷ trọng xấp xỉ
30%, hộ dịch vụ cũng đạt mức tương tự. Ngược lại, tốc độ chuyển
dịch cơ cấu ngành nghề hộ nông thôn từ NLTS sang CNXD và dịch
vụ qua 10 năm (2001 - 2011) ở vùng Trung du miền núi phía Bắc
và vùng Tây Nguyên có tăng nhưng không đáng kể. Tỷ trọng các
hộ CNXD và dịch vụ ở vùng Trung du miền núi phía Bắc chỉ tăng
từ 11,3% lên 16,6%; vùng Tây Nguyên từ 10,2% lên 12,3%. Điểm
đáng lưu ý là ở vùng Tây Nguyên, tỷ trọng hộ CNXD và hộ dịch vụ
hầu như không thay đổi. Đây cũng là những vùng mà các hộ NLTS
chiếm đa số (trên 80%).
c/ Thu nhập của dân cư nông thôn
Trong những năm vừa qua, với những thành tựu đạt được
trong phát triển sản xuất nông nghiệp và xu hướng gia tăng việc
làm phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn, thu nhập của dân cư
nông thôn đã từng bước được cải thiện đáng kể.