Page 292 - Những bài Làm Văn 12
P. 292
- Biết hiến mình cho những chiến công rồi trỏ về với cuộc đời bình thường làm
một người con gái dịu dàng của đất nước.
- Sông Hương là nguồn cảm hứng vô tận của các nghệ sĩ từ xưa tớl nay.
- Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển của Huê'; sông Hương, ấy là một
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nguyễn Du từng bao năm lênh đênh tr^n dòng
sông này và có lẽ đã diễn tả điệu Tứ đại cảnh của Huế qua tiếng đàn của Kiều. Trong
như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời...
- Tác giả cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng thơ không lặp
lại mình: ấy là “dòng sông trắng - lá cảy xanh’ trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà; “như
kiếm dựng trời xanh” trong khỉ phách của Cao Bá Quát; là nỗi quan hoài vạn cổ trong
thd Bà Huyện Thanh Quan; là sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong tha Tố Hữu...
- Tác giả lí giải tên dòng sông Hương bằng một huyền thoại đầy chất thơ.
* Cả bài kí toát lên vẻ đẹp diệu k) của sông Hường qua trí tưỗng tượng bay bổng, phong
phú cùng ngòi bút tài hoa của tác giả.
Tác giả thấy sông Hương có lúc giống như một cô gái Huế, có lúc như là một cô
gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nhưng nói chung vẫn là một thiếu nữ tài hoa,
dịu dàng, sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang
sức mà không loè loẹt phô phang, giống như những cô dâu Huế ngày xưa kiêu sa
trong sắc áo dài màu điều lục.
3. Kết bài:
- Qua bài tuỳ bút, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp đa dạng và nên thơ của
cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, đặc biệt là sông Hương: thấy được bề dày truyển thống
lịch sử, văn hoá xứ Huê' và những nét duyên dáng, độc đáo của tâm hồn con người
vùng đất cô' đô.
- Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, một vốn văn hoá đầy đặn, phong phú vể Huê'
và trước hết với một tình cảm gắn bó thiết tha với Huế, tác giả đã huy động triệt để
mọi tiềm năng văn hoá cùng với vốn ngôn từ giàu có của mình để phát hiện, diễn tả
vẻ đẹp và chất thơ thể hiện tập trung ở dòng sông Hương như một biểu tượng muôn
đời của xứ Huê' thân yêu.
II. BÀI LÀM
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốoỏ làng Bích Khê,
xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc
đời, ông gắn bó với xứ Huê' yêu thương. Tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc
trưng của văn hoá Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt - Hán Trường Đại
học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết - Văn Đại học Huế.
Sau đó, ông về dạy tại trường Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc
Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt
291