Page 374 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 374

2. Người kể chuyện
         Văn bản được kể từ ngôi thứ ba, người kể chuyện giấu mặt và có khoảng cách
     từ người kể đến nhân vật.  Thế nhưng khoảng cách đó có lúc bị vi  phạm, theo hai
     cách;
         Thứ nhất, người kể gửí điểm nhìn sang Phăng-tin và kể lại diễn biến xung đột
     giữa  Gia-ve và  Giăng Van-giăng theo cái  nhìn  của  Phăng-tin  khi  chị  “lại  mở  mắt
     ra” chứhg  kiến việc ‘lên  mật thám  Gia-ve  nắm  lấy cổ áo ông thị trưởng;  chị thấy
     ông thị trưởng cúi đầu. Chị tưởng như cả thế giới đang tiêu tan”, cả  đoạn đối thoại
     tiếp  đó  giữa  Gia-ve  và  Giăng  Van-giăng,  điểm  nhìn  trần  thuật  nương  theo  điểm
     nhìn của Phăng-tin để trục tiếp theo dõi những gì đang diễn ra. Vì vậy, động tác và
     ngôn ngữ của Gia-ve lẫn Giăng Van-giăng thật sống động trước mắt độc giả.
         Thứ hai, khoảng cách íựsựtiếp tục bị vi phạm (và điều này thường xuyên xảy
     ra với Huy-gô) là khi người kể trực tiếp nhảy vào tác phẩm nêu câu hỏi hộ độc giả
     (hoặc hộ một nhân vật nào đó trong truyện); “ông nói gì với chị? Người đàn ông bị
     ruồng  bỏ ấy có thể  nói  gì  với  người  đàn  bà  đã  chết?  Những  lời  ấy  là  lời  gì  vậy?
     Chẳng ai trên thế gian này nghe được. Kẻ đã chết có nghe thấy không?”

         Bên cạnh việc thoải mái vi phạm khoảng cách tự sự đó, người kể còn sử dụng
     nhiều đối thoại và lời  miêu tả động thái và cả lốí bình luận: “Giàng Van-giăng tay
     vẫn cầm thanh sắt, từ từ đến bên giường Phăng-tin. Đến  nơi, ông quay lại nói với
     Gia-ve, bằng một giọng cố ý mới nghe rõ:
         - Tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này.
         Sự thật là Gia-ve run sự’.

         Hai câu đầu là lời miêu tả hành động Giăng Van-giăng của người kể, câu tiếp
     đó  là  lời nói (đối  thoại)  của  Giăng Van-giăng,  câu  cuối cùng  là  lời binh  luận của
     người kể.  Huy-gô, trong văn bản, cùng lúc sử dụng nhiều kiểu ngôn từ. Nhờ đó, lối
     kể của ông sình động, hấp dẫn.
         3. Gia-ve

         Trong mắt Phăng-tin,  Gia-ve mang “bộ mặt gớm ghiếc”.  Bộ mặt ấy khiến chị
     “như chết lịm đi”. Cái nhìn “như cái móc sắt’ của Gia-ve được Phăng-tin cảm nhận
     “đã thấy nó đi thấu vào đến tận xương tủy”. Điệu cười của Gia-ve là “cái cười ghê
     tởm phò ra tất cả hai hàm răng”. Giọng nói của Gia-ve thì hách dịch: “Ai nói với ta
     thì phải nói to” . Ánh  mắt của Gia-ve  nhìn “trừng trừng”.  Hành động của Gia-ve là
     hành động côn đồ: ‘lúm lấy cổ áo và ca-vát của Giăng Van-giàng”. Toàn bộ ngoại
     diện,  tính  cách  và  sự vô  lương  tâm  trước việc  nói  oang  oang  cho  Phăng-tin  biết


                                                                            373
   369   370   371   372   373   374   375   376   377   378   379