Page 294 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 294

những  mong sinh con đẻ cái  mở mặt sau  này.  Còn mình thì...  Trong  kẽ  mắt kèm
   nhèm của  bà  rỉ xuống  hai dòng  nước mắt...  Biết rằng chúng  nó có nuôi  nổi  nhau
   sống  qua  được cơn  đói  khát  này  không”.  Ý thức trách  nhiệm của  người  làm  cha
   làm  mẹ ở bà  cụ  Tứ lớn  biết chừng  nào.  Bằng việc để cho  nhân vật tự trách  này,
   Kim Lân đã khai thác được nét văn hoá hồn hậu đầy nhân văn của người mẹ Việt
   Nam xuyên  suốt  hành trình  dân  tộc  bao đời  nay.  Người  mẹ  đó đã  trỏ thành  một
   biểu tượng của văn hoá.
       Trong  mối quan hệ giữa ba nhân vật, tài năng độc đáo của Kim Lân là ở chỗ
   ông xây dựng họ vừa  là ân  nhân vừa là người gây ra gánh nặng cho nhau. Tràng
   lấy vỢ là cưu  mang cuộc sống của  một người  phụ  nữ cơ hàn.  Người vợ “nhặt” lấy
   Tràng cũng là sự cưu  mang cuộc sống tinh thần của Tràng,  bởi nếu không có cái
   nạn đói chết người ấy, chắc gì Tràng đã có thể lấy nổi vợ. Bà cụ Tứ, người được cả
   Tràng và người đàn bà lo sợ ấy đồng ý trước việc lấy vợ của Tràng và thầm mang
   ơn  người đàn bà lạ  lẫm tự nguyện làm dâu  nhà mình.  Mỗi nhân vật đều được đặt
   trong sự ý thức mình là gánh nặng cho người kia, mình không xứng đáng với người
   kia. Giá trị nhân đạo và ý thức nhân phẩm đạo đức được thể hiện rõ ở chỗ này. Họ
   là  những  người dưới đáy xã  hội nhưng vẫn luôn biết quý trọng và tốn trọng  nhau.
   Đấy chính là cơ sở cho sự đùm bọc, yêu thương lẫn nhau.
       Dù  rất  ít  nói,  bà  cụ  Tứ vẫn  là  người  hấp  dẫn  người  đọc  nhất.  Bởi  trong  lòng
   người mẹ ấy, người đọc tiếp xúc với cả trăm mối tơ vò, chuyện hiện tại, chuyện quá
   khứ đan xen  lẫn lộn;  niềm vui vì con có vợ,  nỗi buồn,  sự cay đắng tủi  vì gia  cảnh
   nghèo nàn và cả cảm giác xót thương vây lấy...  Bà cụ Tứ là  một người  mẹ đầy ắp
   tâm trạng: “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt” sâu thẳm
   như cõi lòng nhiều uẩn khúc của bà.
       Vợ chồng  Tràng  nào biết hết nỗi  lòng  bà  cụ  Tứ.  Bà trải  hết lòng  mình  ra  với
   chúng.  Bà  nhìn  người  đàn  bà  và  nghĩ:  “Người ta  có gặp  bước  khó  khăn,  đói  khổ
   này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”...
       Càng  nghĩ,  bà  càng  cay  đắng  cho  thân  phận  mình:  một  người  mẹ,  bà  đã
   chẳng lo được gì cho con,  bà chỉ còn biết hi vọng: “May ra  mà qua  khỏi được cái
   tao đoạn  này thì thằng con  bà  cũng có vợ,  nó yên  bề  nó,  chẳng  may ra  ỏng giời
   bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”
       Trong sự khốn cùng, cái may vẫn hiện diện, đấy là lòng lạc quan, niềm tin vào
   tương lai của  những người cơ cực, dưới đáy xã  hội:  “Bà khẽ dặng  hắng một tiếng,
   nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”: - ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với
   nhau, u cũng mừng lòng...”
       Vượt qua nhữhg lo âu thường nhật, bà cụ Tứ hướng đến cuộc sống tương lai. Bà
   còn dặn dò đôi vợ chồng trẻ: “Nhà ta  nghèo con ạ.  Vợ chồng chúng  (ìiày liệu  mà
   bảo nhau làrn ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ,
   ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.

                                                                          293
   289   290   291   292   293   294   295   296   297   298   299