Page 293 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 293

khuất phục số phận  mà  luôn vươn tới sự sống cao đẹp,  hướng tới tương  lai  và  ỏ
       một hoàn  cảnh  nhân  đạo  hơn,  trong  sự cưu  mang  của  tình  người,  phẩm  giá  con
       người đã sống dậy. Trong sự ý thức cảnh nghèo hèn, con ngưài nhận thức được sự
       nổi dậy. Tối tăm, đói khát,  nghèo hèn,... là nỗi cùng quẫn của con người Việt Nam
       trước 1954, nhưng cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo bao la qua
       cái nhìn của Kim Lân.
                                                                    LÊ HUY BẮC

           IV.  Tâm trạng bà cụ Tứ trong Vợ nhặt của Kim Lân
           Bà cụ Tứ là  nhân vật đặc biệt trong  Vợ nhặt.  Nhân vật này chủ yếu  hiện diện
       qua tâm trạng.  Nhờ khai thác thế giới  nội  tâm  này,  Kim  Lân  đã  hoàn  thiện  được
       bức tranh đời sống cơ khổ của  người  nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng
       Tám một cách khách quan, đậm nét đầy nghĩa tình.
           Trên  nền  bôi cảnh  là  nạn  đói  khủng  khiếp  năm  1945,  Kim  Lân  đã  khắc  hoạ
       thành  công  những  gương  mặt điển  hình,  đã xây dựng  kì  công  gian triển  lãm  độc
        nhất vô nhị về cái đói và tình người trong cảnh đói khổ đó. Thể hiện cảm động tấm
        lòng  yêu  thương,  đùm  bọc  lẫn  nhau  và  niềm  khao  khát  hạnh  phúc  của  những
        người  nghèo khổ,  Kim  Lân chủ yếu  hướng vẻ đẹp nhân bản ấy ở nhân vật bà cụ
        Tứ, mẹ của Tràng và là người thừa nhận người đàn bà theo con trai mình về nhà.
            Chỉ xuất hiện vào khoảng  nửa cuối của thiên truyện nhưng  bà cụ Tứ là  nhân
        vật  quan  trọng  của  tác  phẩm.  Qua  bà, tình  người  hiện  lên  cảm  động  hơn,  chân
        thành  hơn và  vì thế mà  sức tô' cáo xã  hội tàn  nhẫn, tuy gián tiếp  những sâu  sắc
        hơn.
            Bà  cụ  Tứ là  người  mẹ  nghèo  khổ thương  con  như bao  người  mẹ  Việt  Nam.
        Người mẹ ấy được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng, con trai
        của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành,  bản thân  không ai dám chắc có thể tự nuôi
        sống mình, lại lấy vợ. Nhưng chính nghịch cảnh này càng làm nổi rõ ánh sáng tâm
        hồn  ỏ người  mẹ.  Đấy là  nghệ thuật tạo sự đối lập giữa  con  người  với  hoàn  cảnh.
        Đây  là  bút  pháp  đặc trưng  của  chủ  nghĩa  hiện  thực.  Thông  qua  sự đối  lập  này,
        người viết khắc hoạ rõ nét hơn suy nghĩ và  hành động của  nhân vật, để tư đó đề
        cập, phê phán những mặt xấu của thời đại.
            Bà cụ Tứ xuất hiện lúc anh Tràng đưa vợ về. Đúng hơn là khi Tràng đưa vợ về
        một lúc lâu thì cụ Tứ mới về. Cách kể này tạo sự hồi hộp cho người đọc. Ta không
        biết liệu cụ có đồng ý nhận người vợ nhặt ấy không, vẻ bồn chồn của Tràng và sự
        căng thẳng của  người đàn  bà càng cho thấy vai trò quyết định của cụ  Tứ đối với
        hạnh phúc của họ.
            Khi gặp người đàn bà xa lạ, nghe người ấy chào bằng u, bà cụ Tứ hiểu ra “biết
        bao nhiêu cơ sự’.  Không chỉ cảm thông cho các con mà cụ còn tự trách bản thân:
        “Chao  ôi,  người  ta  dựng  vợ  gã  chồng  cho  con  là  lúc trong  nhà  ăn  nên  làm  nổi,


        292
   288   289   290   291   292   293   294   295   296   297   298