Page 282 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 282
tình cảnh của người phụ nữ này. Đằng sau tiếng cười, chúng ta nhận ngay ra một
sự thực xót xa: Chính cái đói và chỉ có cái đói là nguyên nhân duy nhất đẩy con
người ta xích lại gần nhau và nên vợ nên chồng, ở đây chẳng hề có màu sắc của
tình yêu hay tình nghĩa. Cái đói khiến cho người phụ nữ tiều tụy, hốc hác nên
Tràng chưa thể nhận ra. Cái đói khiến cho người phụ nữ lúc ấy quên hết thể diện,
mất cả tình tứ. Khi được mời ăn (dù đùa) “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì
sáng lên, thị đon đả:
- An thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu àn một chặp bốn bát bánh đúc
liền chẳng chuyện trò gì...”. Trong phút chốc, phần bản năng đã lấn át đi ý thức về
thể diện. Tinh cảnh của người phụ nữ này có lẽ chẳng hề cá biệt. Chúng ta hiểu vì
sao Kim Lân không đặt cho người vợ nhặt của Tràng một cái tên riêng mà gọi
bằng đại từ chung là ‘1hị”. Nào cần cái tên riêng bởi trong thân phận, hành động
của chị ta có bóng dáng cuộc đời của bao người phụ nữ khác trong hoàn cảnh đói
khát nghiệt ngã bấy giờ... Viết Vợ nhặt, Kim Lân đâu nhằm tái hiện nhiều bức tranh
hiện thực đói khát thê thảm mùa xuân ất Dậu 1945 nhưng chỉ qua một số chi tiết,
hình ảnh đầy sức ám ảnh, tác phẩm khiến người đọc khó thể quên những ngày
tháng nghiệt ngã ấy. Có lẽ chưa từng có và sẽ không bao giờ có nữa hình ảnh bữa
ăn sáng đón nàng dâu thảm hại như thế. Một nồi cháo lõng bông, một lùm rau
chuối thái rối, một ít muối... mấy thứ ấy lại bày trên một chiếc mẹt rách.
2. Chuyện thế đã lạ. Nhưng nếu câu chuyện vợ nhặt chỉ lạ đến thế thì thiên
truyện đâu đã xứng danh là “thần búr. Chuyện đùa cợt mà thành nghiêm túc. Tinh
huống ngẫu nhiên mà toát lên vẻ tự nhiên, lẽ tất yếu - ấy là cảm nhận rất tự nhiên
mà tác phẩm đem đến cho chúng ta. Theo tôi, Vợ nhặt cùng một lúc chứa đựng
hai nghịch lí thú vị' Chuyện lẽ ra nghiêm túc lại diễn ra như một trò đùa; Chuyện
đùa, ‘lầm phơ tầm phào” mà trỏ nên nghiêm túc, trang trọng, mà được thực hiện
bằng tất cả niẽm vui sống, bằng khát vọng hạnh phúc chính đáng. Những con
người nghèo khổ ấy đến với nhau, cưu mang nhau một cách thật tự nhiên bằng cải
đạo lí tốt đẹp ngàn đời của dân tộc “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác
giống nhưng chung môt giàn” , ở đây là lá rách ít đùm lá rách nhiều. Mẹ con Tràng
nào có no đủ gì, cũng đang hàng ngày đối chọi với chuyện miếng ăn, cái chết, vậy
mà vẫn sẵn lòng cưu mang người phụ nữ kia. Tràng được người ta theo về mà còn
“Chặc, kệ!”. Nhưng sau cái "Chặc, kệ!” có vẻ miễn cưỡng ấy sẽ là bao niềm vui
khấp khỏi trong lòng ngươi đàn ông nghèo khổ bỗng dưng được vọ. Néu không thê
thì tại sao chưa gì đ j đưa chi ta vào chợ tỉnh, ‘bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con
đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bửa tnật no nô rối cùng đẩy xe bò
về...” tại sao lại quyết định mua hai hào dầu để tối nay thắp đèn? Tràng nóng
lòng chờ mẹ về để thưa chuyện với tất cả nỗi hồi hộp. Buổi tối ấy, chính tay Tràng
đánh diêm thắp lên ngọn đèn dầu trong căn nhà bấy lâu nay tốl tăm, lạnh lẽo. Ánh
281