Page 224 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 224

Thế - tức  nhân  vật  Liên)  bán  hàng và  ngủ  lại để coi  hàng.  Nhưng  nhũhg điều  đó
   không  mấy quan trọng,  điều cần luu  ý ở đây là chuyến tàu từ Hà  Nội về vẫn đều
   đặn chạy qua  ngôi quán  ngỏ của  hai chị em sau 9 giờ tối đã đánh thức trong tâm
   hồn hai đứa trẻ niềm thương tiếc âm thầm một thiên đường của tuổi thơ đã trỏ nên
   xa xôi, diệu vợi. Và có lẽ cũng không chỉ dừng lại ỏ đó, con tàu ấy còn đánh thức cả
   niềm  khao khát được sống trong  một thế giới ấm áp và  hạnh  phúc của  nhũmg linh
   hồn trẻ dại sớm phải chịu đựng những truân chuyên của cuộc đời.
       Truyện  khỏi đầu  bằng  câu  vàn  miêu tả tiếng trống thu  không trên  chòi canh
   của  huyện nhỏ với  những âm rền thong thả, chậm rãi từng tiếng  một vang ra  như
   để  gọi  buổi  chiều.  Dù  là  phố  huyện  nhưng  cách  đo thời  gian  nơi  đây  có vẻ  vẫn
   theo theo lối cổ xưa,  điểm  bước đi của thời gian và  sinh  hoạt của  một vùng bằng
   tiếng trống.  Nét đặc biệt ấy gợi ý thức về thời gian giúp tác giả dẫn người đọc theo
   dõi cảnh quay chi tiết hình ảnh  một buổi chiều tàn với  những nét rực rỡ:  “Phương
   tây đỏ rực như lửa cháy và  những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn.  Dãy
   tre  làng  trước  mặt  đen  lại  và  cắt  hình  rõ  rệt trên  nền  trời”,  cả  mặt  trời  lúc  sắp
   xuống  núi  lẫn  những  đám  mây từ phía  chân trời đều  như đang  bốc cháy lần cuối
   trước khi từ giã  ban ngày,  nhường chỗ cho cảnh tượng dãy tre làng (như thể đã bị
   đốt cháy) đen lại, cắt hình rõ rệt trên nền trời.  Ngòi bút của tác giả thực sự trở nên
   linh hoạt và sống động khi miêu tả sự vận động của thời gian qua những diễn biến
   của cảnh vật.  Lúc đầu  là cảnh “nhá  nhem tối”  khi  ánh sáng và  bóng tối đan xen
   qua  hình  ảnh  “những  hòn  đá  nhỏ  một  bên  sáng,  một  bên  tối”.  Sau  đó là  hoàng
   hôn bao phủ: “Đường phô và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Tối hết cả,
   con  đường thăm thẳm  ra  sông, con  đường qua chợ về  nhà,  các  ngõ vào làng  lại
   xẫm đen hơn nữa” . Cuối cùng là cảnh đêm về thực sự: “đém ỏ trong phổ tịch mịch
   và đầy bóng tôT.
       Nếu  để  ý,  ta  sẽ  thấy  ngòi  bút  miêu  tả  của  nhà  văn  đi  từ đại  cảnh  đến  tiểu
   cảnh.  Thoạt đẩu  là cảnh  bầu trời,  những  đám  mây sau  đó là  luỹ tre làng  rồi  ghé
   xuống quán nhỏ của chỉ em Liên, cuối cùng đậu trên chiếc đèn con leo lét của chị
   Tí.
       Nhưng đấy chỉ là cảnh nền, cảnh thực của phố huyện được nhà văn đặc tả tỉ
   mỉ. Đây là hình ảnh phiên chợ đã tàn: “Chợ họp trong phố đã vãn từ lâu.  Người về
   hết và tiếng ồn ào cũng mất.  Trên đất chỉ còn rác rưởi,  vỏ bưởi,  vỏ thị,  lá nhãn và
   bã  mía.  Một  mùi àm  ẩm  bốc  lên,  hơi nóng  của  ban  ngày lẫn  mùi cát bụi quen
   thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi liêng của đất, của quê hương nàỳ’.
       Cách miêu tả tỉ mỉ với lối quay cận cảnh nên từ hạt cát,  hòn đá,  đến vỏ bưởi,
   vỏ thị,  lá nhãn,  bã mía...âều  đi vào tầm quan sát,  đánh thức những xúc động âm
   thầm, rồi chuyển cảm giác sang các mùi vị gợi nhớ, gợi liên tưởng: mùi cát bụi, mùi
   đất,  mùi của quê hương...Phó huyện về đêm từ từ mỏ ra vâi những điểm sáng lác
   đác ỏ nhà bác phở Mỹ,  nhà ông cửu,  ở hiệu khách...như thể tác giả có nhã ý  dùng


                                                                          223
   219   220   221   222   223   224   225   226   227   228   229