Page 122 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 122

VIỆT BẮC


                                                                     TỐ HỮ U
        A. KIẾN THỨC BỔ TRỢ

        I- Tác  giả:  Tố  Hữu  tên  khai sinh  là  Nguyễn  Kim  Thành,  sinh  ngày   4-10-
    1920,  mất 09-12-2002 tại  Hà Nội. Tố Hũu  quê ỏ Quảng Thọ,  Quảng Điền,  Thừa
    Thiên - Huế. Xuất thân trong một gia đình nhà nho, từ nhỏ, Tố HũfU đã được mẹ ấp
    ủ và ru bằng tiếng hát ngọt êm qua nhiều làn điệu ca Huế; được cha chăm rèn về
    các phép tắc làm thơ theo lối cổ, sưu tầm tục ngữ, ca dao.
        Ngay từ tuổi học sinh, Tò Hữu đã giác ngộ lí tưỏng cộng sản; được học tập và
    tiếp xúc với văn  học Pháp và trào lưu văn học xã  hội chủ  nghĩa của thế giới.  Sau
    Cách  mạng  tháng  Tốm,  liên tục trong  nhiều  năm,  ông đảm  nhiệm  cương vị  lãnh
    đạo công tác vàn  hoá,  văn  nghệ và tuyên huấn của Đảng. Tất cả  những  nhân tố
    ấy đã hun đúc nên tiếng thơ Tố Hữu.
        Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng. Cuộc đời ông, trái tim ông “dành riêng cho
    Đảng phần nhiều” . Đồng hành vối con đường cách mạng ấy, các tập thơ của ông
    đã  phản ánh trung thành các bước phát triển của cách mạng Việt Nam, đổng thời
    thể hiện sự vận động trong tưtưỏng và nghệ thuật của nhà thơ.

        Từ ấy (1937 -  1946) là tập thơ đầu tay, được viết do sự thôi thúc của hồn thơ
    sôi  nổi,  là  tiếng  reo vui của  một thanh  niên  khát khao sống,  đang  “băn  khoăn  đi
    kiếm lẽ yêu đời” thi bắt gặp được lí tưởng cách mạng, tìm thấy iẽ sống.

        Tập thơ  Việt Bắc (1946  -  1954)  là  bản  anh  hùng  ca  của  cuộc  kháng  chiến,
    phản  ánh  những  chặng  đường  gian  lao,  anh  dũng  và  thắng  lợi  của  cuộc  kháng
    chiến chống  Pháp. Tô  Hữu  hướng vào thể  hiện thành  công con  người  Việt Nam,
    trước hết là công nông binh, với một nghệ thuật thơ đậm đà tính dân tộc.
        Tập  Gió lộng (1955 - 1961) tập trung khai thác các chủ đề lớn bao trùm trong
    đời sống  tinh  thần  của con  người Việt  Nam đương  thời:  công cuộc xây dựng chủ
    nghĩa xã  hội ở miền Bắc, tình cảm  Bắc - Nam và ý chí thống  nhất nước nhà, tình
    cảm  quốc tế vô  sản.  Tập  thơ  khẳng  định  cái tôi  trữ tình  còng  dân;  ngợi  ca  hình
    tượng  người  chiến  sĩ,  tiếp  tục  khuynh  hướng  khái  quát và  cảm  hứng  lịch  sử trên
    tinh thần lãng mạn.

        Hai tập thơ Ra trận (1962 - 1971) và Màu và Hoa (1972 - 1977) là khúc tráng
    ca  của dân tộc thời đánh  Mĩ;  cổ vũ,  động viên và  ngợi ca cuộc chiến đấu,  khẳng
    định ý  nghĩa thời đại và phẩm chất của con  người Việt Nam.  Giọng thơ đậm chất
    chính luận, có khuynh hướng khái quát, tổng kết lịch sử vang dội.
        Tập thơ Một tiếng đòn (1979  -  1992),  Ta  vôi Ta (1993  -  1999)  !à  sự kết hợp
    giữa chất trữ tình chính trị với chất trữ tình thế sự trên nền tảng của niềm tin vào lí
                                                                        o
                                                                            121
   117   118   119   120   121   122   123   124   125   126   127