Page 226 - Lý Thường Kiệt
P. 226
LÝ THƯỜNG KIỆT
mới, là phải phạt những kẻ cầm đầu gây việc chiến tranh. Sách TB (292/4a)
chép rằng ngày 12 tháng 9, Tống Thần Tông hạ chiếu nói:
"Giao Chỉ quận vuơng Lý Càn Đức bằng lòng trả những nguời đã cuớp
ở ba châu Ung, Khâm, Liêm, thì theo lời khanh đã xin, lấy các châu Quảng
Nguyên, Tô Mậu, và huyện Quang Lang trả lại cho. Nhung phải đem các
thủ lĩnh đã gây loạn đến biên giới xử" (Q. Vi, DL 1-10-1078).
Thế là Tống đòi Lý xử "tội nhân chiến tranh". Mà tội nhân ấy chính là
ám chỉ Lý Thường Kiệt! Vua Lý trả lời rất tường tận. Đó là theo chú thích ở
sách TB (292^4a), nhưng sách ấy nói: bản Thực lục cựu chép lời đáp rất
rõ, bản tân kỷ bỏ đi. Nay sách ấy không chép lại. Ta rất tiếc không được biết
lời lẽ thư trả lời ấy. Nhưng ta cũng đoán được rằng Lý không nhận đem xử
thủ lĩnh gây loạn. Mà vì thế, phái bộ Đào Tông Nguyên lần này không đem
lại được một kết quả thực tế gì về việc đòi đất Quảng Nguyên, ngoài lời hứa
của hai bên.
4. Tống trả nhượng địa
Tuy Tống lấy giọng bề trên đối vói vua Lý, nhưng bề trong, Tống vẫn sợ ta
uy hiếp biên thùy. Đối vói sứ bộ Đào Tông Nguyên, Tống tiếp đãi rất tử tế. Bấy
giờ sứ Chiêm Thành cũng vừa đến, đưa voi từ Quảng Châu tới cống (tới
Quảng Châu từ tháng Chạp năm trước, TB 286/la). Sứ Chiêm sợ gặp mặt sứ ta.
Vua Tống tỏ vẻ lúng túng, vì biết rằng ta tự coi Chiêm Thành như phụ thuộc
trực tiếp nước ta. Bèn sai xếp đặt làm sao cho hai sứ bộ không chạm mặt nhau,
và để tỏ rõ rằng Tống ưu đãi sứ ta hơn sứ Chiêm. Vua Tống dặn các viên đón
tiếp rằng: "Nhà ở, nơi ăn yến, đều để riêng. Gặp ngày sóc, thì hai phái bộ đều
đến điện Văn Đức, nhưng chia ra đông tây mà đứng. Ngày vọng thì phái bộ
Giao Chỉ vào điện Thùy Củng, phái bộ Chiêm Thành vào điện Tử Thần. Ngủ
và đãi yến thì sứ Giao ở điện Đông Đóa, sứ Chiêm ở Tây Vu" (TB 292/7a).
Tống Thần Tông bấy giờ lo việc biên thùy miền bắc hơn miền nam.
Tháng 8 năm ấy (M. Ng 1078), đổi Triệu Tiết đi coi Thái Nguyên, và bổ Tăng
Bố thay. Nhưng viện khu mật xin lưu Tiết coi ty an phủ, tuy rằng Bố đã đến
Quế Châu. (12-9, TB 292/4a).
236