Page 106 - Lý Thường Kiệt
P. 106
LÝ THƯỜNG KIỆT
Trên đây chỉ nói đến "quan quân" nghĩa là quân chính quy thuộc triều
đình tuyển. Ngoài ra, còn có nhiều thứ quân địa phương, tức là dân quân:
thổ đinh (dân các châu), động đinh (dân các động). Theo thời, ở các trại, khi
thì có quan quân, khi thì hoàn toàn để động đinh phòng thủ.
Dân các động thường hay cướp nhau. Vậy nên, chúng đã tự tập võ
nghệ để tự vệ: hạng trai tráng tự vệ ấy gọi là điền tử giáp, nghĩa là vừa cày
vừa làm lính. (LNĐĐ/3).
Tất nhiên rằng khi các viên chức Tống không biết cai quản khê động,
thì động đinh ấy trở thành những mối lo cho Tống ở biên thùy. Trái lại, lúc
các viên coi Quế Châu, hay Ung Châu quan tâm đến sự kết thúc chúng, thì
chúng lại trở nên những quân lính, không những giữ biên thùy có công
hiệu, mà chúng có thể thành quân tiền phong uy hiếp nước ta.
Từ khi Nùng Trí Cao đã phá Quảng Nam, quân Tống đặt ra lệ cứ năm
đinh bắt một, để làm thổ đinh, và cứ hai đinh bắt một để làm bảo đinh.
Đến đời Hy Ninh thứ 6 (1073), Vương An Thạch tổ chức lại, muốn theo lệ
quân nghĩa dũng ở Hà Bắc; đặt cấm binh giao cho viên kinh lược hoàn toàn
điều phát, và chỉ dành bảo đinh cho các châu huyện trông coi. (LNĐĐ/3).
Tống tổ chức quân khê động để toan vào đánh đất ta. Ta sẽ thấy rằng
Tống sẽ thất bại trong các cuộc hành quân; mà lẽ chính cũng là vì do dự
không lợi dụng triệt để các quân khê động ấy.
3. Chính sách kiềm chế
Lúc Thần Tông mới lên ngôi và lúc Vương An Thạch mới chấp chính, ý
tưởng đối với ta thế nào? Sách TB nay đã mất khoảng ba năm đầu đời Hy
Ninh (từ tháng 4 năm Đ. Zu 1067 đến tháng 3 năm c. Ty 1070), làm ta
không thể biết rõ. Nhưng đoạn sau còn nhắc lại đoạn mất, khiến ta đoán
rằng vua Tống và An Thạch đã bàn đến việc Giao Chỉ. (TB 216/6a).
Lúc quốc dụng được dồi dào, binh lực khá mạnh, vua Tống Thần Tông
bèn nghĩ đến việc biên cương.
ở phía bắc, hai nước Liêu, Hạ vẫn mạnh và thường uy hiếp biên giới.
Quân và tướng giỏi phần lớn đóng ở bắc thùy.
114