Page 105 - Lý Thường Kiệt
P. 105
BẠI CHIÊM-PHÁ TỐNG
2. Phòng thủ nam thùy
Quảng Nam là vùng ở cực nam nước Tống; gồm hai lộ: Quảng Nam tây
lộ và Quảng Nam đông lộ. Gọi tắt là Quảng Tây và Quảng Đông. Quảng
Tây bấy giờ ra tận bờ biển: Liêm Châu và Khâm Châu đều thuộc Quảng
Tây. Cho nên nước Đại Việt đời Lý hoàn toàn tiếp đất Quảng Tây.
Sau khi Nùng Trí Cao đánh phá Quảng Nam, Tống đã chia tây lộ làm
ba: Ung, Nghi, Dung. Được ít lâu lại trở lại chế độ cũ. (LNĐĐ/1).
Chức quan cai quản việc quân ở lộ là kinh lược an phủ sứ, đóng ở Quế
Châu. Lệ thường là viên coi Quế Châu kiêm chức ấy: người ta gọi bằng
quan Tri Quế Châu, hay quan kinh lược sứ. về việc lương thực, tài chính, có
chức chuyển vận sứ. Hai chức trên, không bên nào phụ thuộc bên nào, và
đều theo mệnh lệnh trung ương.
Danh hiệu châu rất phức tạp. Vì từ đời Hán đặt ra danh hiệu ấy. Đời
sau, lúc thì đổi ra quận, lúc lại đặt lại. Cho nên đời Tống, tiếng châu chi một
khu vực hoặc to hoặc nhỏ; ví dụ: Quế Châu quản Liêm Châu mà Liêm Châu
lại có lúc quản Khâm Châu.
UNG CHÂU là châu thuộc Quảng Tây và tiếp đất nước ta. Viên coi Ung
Châu thuộc viên coi Quế Châu. Viên ấy kiêm chức an phủ đô giám, coi tất cả
việc binh lương, luyện tập, phòng ngự ở biên thùy. Dọc theo các trại giữ
những khê động, như năm trại giáp Đại Việt (IV/1), các chủ trại đều kiêm
chức tuần kiểm để huấn luyện giáp đinh và bắt trộm cướp (LNĐĐ/1). Những
chủ trại có chức tuần phong sứ hoặc là đồ giám (LNĐĐ/3).
về quân, thì Ung Châu gồm hai đoàn, gọi là hai "tướng". Mỗi tướng có
5.000 quân. Giữ biên thùy Đại Việt, có một tướng, chia làm hai phần: 2.000
đóng ở thành Ung, 3.000 chia đóng năm trại: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh
Bình, Cổ Vạn, Thiên Long.
về mặt KHÂM CHÂU, có đặt viên phòng biên tuần sứ cai quản đoàn
quân gọi là Đằng Hải, hợp với quân của hai viên tuần kiểm, không quá 500
người, đóng ở hai trại: Như Tích giáp biên thùy châu Vĩnh An và Để Trạo ở
cửa sông Khâm Châu.
113