Page 100 - Lý Thường Kiệt
P. 100
BẠI CHIÊM-PHÁ TỐNG
b. Từ ải H À D Ư Ơ N G (Hà Giang) khởi hành 10 ngày đến B ình N gu yên -, 5 ngày đến
huyện P h ú c Y ên (Hàm Yên); 1 ngày đến phủ T u y ên Quang-, 2 ngày đến phủ Đ oan H ù n g; 5
ngày đến ngã ba Bạch H ạc.
c. Từ QUẢNG ĐÔNG thuyền khởi hành từ núi Ô L ôi, theo bờ h ể , đi 1 ngày đến núi
Bạch L o n g V ĩ thuộc châu Vĩnh An; 2 ngày đến cửa N g ọ c Sơn; 1 ngày đến châu V ạn N in h ; 1
ngày đến M iế u S ơ n , 1 ngày đến tuần ty Đ ồn T ốt; 2 ngày đến phủ H á i Đ ô n g ; 2 ngày đến xã
K in h T hục; 1 ngày đến cửa Bạch Đ ằ n g , tuần T hiên Lâu.
Vào nội địa có thể qua những cửa Bạch Đằng, An Dương, Đồ Sơn, Đa Ngư, hay Thái
Bình. Cái lối vào, kê như sau;
a. Cửa Bạch Đ ằ n g , huyện Thủy Đường (Thủy Nguyên), huyện Đông Triều, phủ Hải
Dương, huyện Chí Linh, sông Hoàng Kênh, sông Bình Than, phía bắc Nam Sách, phía
bắc Thượng Hồng, Giao Châu.
b. Cửa A n D ư ơ n g (cửa cấm), huyện An Dương, phủ Kinh Môn, sông Hoàng Kênh,
sông Bình Than, phía bắc Nam Sách, phía bắc Thượng Hồng, Giao Châu.
c. Cửa Đồ S ơn, cổ Trai, phía bắc huyện Nghi Dương, phía bắc huyện An Lão, huyện
Bình Hà, phía nam huyện Nam Sách, phía nam Thượng Hồng, Giao Châu.
d. Cửa Đ a N g ư (cửa Văn úc), huyện An Lão, huyện Tân Minh (Tiên Lãng), sông Sóc
Hồng thuộc huyện Tứ Kỳ, Hàm Tử quan thuộc Khoái Châu, Giao Châu.
e. Cửa T hái B ìn h , phủ Thái Bình, phủ Tân Hưng (Tiên Hưng), phủ Khoái Châu, sông
Phú Lương (muốn nói sông Nhị Hà trước thành Thăng Long).
Tài liệu trên chắc về đời Mạc, vì cớ các tỉnh đều gọi là phủ, và nói đến làng cổ Trai,
tức là quê họ Mạc, mà Mạc đã tôn thành một kinh đô.
Tuy đời Mạc cách đời Lý hơn bốn trăm năm, các đường thông lộ Trung Việt qua bể
và qua rừng núi chắc không thay đổi. Trước khi có những máy móc và tổ chức vĩ đại, thì
các đường sá, nhất là qua những vùng khó khăn, chi theo đường thuộc, nghĩa là đường
mòn đã có người dùng trước. Cho nên ta có thể tin rằng đời Tống Lý, đường qua lại giữa
hai nước cũng như trên, chỉ có những đường Vân Nam thì Lý chưa dùng mà thôi. Còn
như những tên đất thì tự nhiên phần nhiều đổi khác. 1.
^ Các vua Lý chịu vua Tống phong, thường theo lệ sau;
Sau khi vua cha mất, Thái tử lên ngôi vua và tự xưng hoàng đế. Nhưng đối với Tống
thì chỉ nói là q u yền tr i lư u h ậu , nghĩa là tạm coi những việc còn dở dang. Rồi sai sứ sang
Tống báo tin: gọi là cáo ai. Tống sai sứ (viên chuyển vận sứ Quảng Tây) sang làm hai việc:
đ iếu tặ n g nghĩa là điếu vua mất và tặng tước cao nhất, THỊ TRUNG NAM VIỆT VUƠNG;
và tấ n p h o n g cho vua mới.
Bắt đầu, chỉ phong chức KIỂM h iệu thái ú y, tước GIAO CHỈ QUẬN VUƠNG (chức
tước hoàn toàn là; K iểm hiệu thải ú y, T ĩn h hải tiế t độ sứ , A n N a m đô hộ G iao C h i qu ận vư ơ n g).
Sau phong thêm m ỹ tự cô n g thần, nghĩa là ban cho những chữ tán tụng những đức
tính tốt trong khi giúp vì Thiên tử. Những mỹ tự ấy gồm hai chữ liền. Ban nhiều cặp chữ
như vậy bao nhiêu là hậu đãi bấy nhiêu: ví dụ như d ự c đái, báo tiết, th ủ ch ín h cô n g thần.
107