Page 167 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 167

Âm dƣơng tác động với nhau mà sinh ra ngũ hành rồi sinh ra vạn

        vật. Ông còn thể hiện ý kiến của mình trong một biểu đồ nên tác

        phẩm của ông gọi là "Thái cực đồ thuyết".

               Đồng thời với Chu Đôn Di còn có Thiệu Ung (1011-1077)


        cũng cho rằng thái cực là nguồn gốc của Vũ trụ. Tiếp đó, thái

        cực sinh lƣỡng nghi (âm dƣơng), lƣỡng nghi sinh tứ tƣợng (thái

        dƣơng,  thiếu  dƣơng,  thái  âm,  thiếu  âm;  hoặc  Xuân,  Hạ,  Thu,


        Đông; hoặc Thủy, Hỏa, Mộc, Kim), tứ tƣợng sinh bát quái, bát

        quái tạo thành 64 quẻ, 64 quẻ ấy bao gồm tất cả mọi quy luật của

        sự vật.


               Sau Chu Đôn Di và Thiệu Ung, thời Tống còn có nhiều nhà

        lí học nổi tiếng nhƣ hai anh em Trình Hạo (1032-1085), Trình Di

        (1033-1107), Chu Hy (1130-1200) v.v... Ngoài việc nghiên cứu


        về mối quan hệ giữa lí và khí, Trình Di và Chu Hy còn nêu ra

        phƣơng pháp nhận thức "cách vật trí tri" nghĩa là phải thông qua

        việc nghiên cứu các sự vật cụ thể để hiểu đƣợc cái lí của sự vật


        tức là cái khái niệm trừu tƣợng. Hai ông còn tách hai thiên Đại

        Học và Trung Dung trong sách lễ kí thành hai sách riêng. Từ đó,

        Đại Học, Trung Dung đƣợc gộp với Luận ngữ, Mạnh Tử thành

        bộ kinh điển thứ hai gọi là Tứ thư.


               Do quá tôn sùng và lĩnh hội một cách máy móc các ý kiến

        của những ngƣời sáng lập Nho giáo nên Nho giáo đời Tống đã

        trở nên bảo thủ và khắt khe hơn trƣớc.


               Tóm  lại, với tƣ  cách  là hệ  tƣ  tƣởng chỉ đạo đƣờng lối trị

        nƣớc ở Trung Quốc trên 2.000 năm, Nho giáo đã đóng góp quan

        trọng về các mặt tổ chức xã hội, bồi dƣỡng đạo đức, phát triển

        văn hóa giáo dục. Nhƣng đến cuối xã hội phong kiến, do mặt


        phục cổ, bảo thủ của nó, Nho gia đã có trách nhiệm rất lớn trong
   162   163   164   165   166   167   168   169   170   171   172