Page 116 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 116
do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp
thầy cúng.
b) Sự phát triển của đạo Phật ở Ấn Độ
Sau khi Phật tịch, đạo Phật đƣợc truyền bá nhanh chóng ở
miền Bắc Ấn Độ. Để soạn thảo giáo lí, quy chế và chấn chỉnh về
tổ chức, từ thế kỉ V-III TCN, đạo Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội
ở nƣớc Magađa, quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ. Từ nửa
sau thế kỉ III TCN, tức là sau đại hội lần thứ ba, đạo Phật trƣớc
tiên đƣợc truyền sang Xri Lanca, sau đó truyền đến các nƣớc
khác nhƣ Myanma, Thái Lan, Inđônêxia...
Đến khoảng năm 100 sau CN, đạo Phật triệu tập đại hội lần
thứ tƣ tại nƣớc Cusan ở Tây Bắc Ấn Độ. Đại hội này thông qua
giáo lí của đạo Phật cải cách, và phái Phật giáo mới này đƣợc
gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ gọi là
phái Tiểu thừa.
Sự khác nhau chủ yếu giữa hai phái biểu hiện ở các mặt
sau đây:
- Phái Tiểu thừa (Hinayana) nghĩa là "cỗ xe nhỏ" hoặc
"con đƣờng cứu vớt hẹp" cho rằng chỉ có những ngƣời xuất
gia đi tu mới đƣợc cứu vớt.
Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là cỗ xe lớn hoặc "con
đƣờng cứu vớt rộng” thì cho rằng không phải chỉ những
ngƣời tu hành mà cả những ngƣời trần tục quy y theo Phật
cũng đƣợc cứu vớt.
- Phái Tiểu thừa cho rằng chỉ có Phật Thích Ca là Phật
duy nhất. Việc cứu độ chúng sinh chỉ có Phật mới làm đƣợc,
những ngƣời thƣờng không thể thành Phật.