Page 220 - Kỹ Thuật Sửa Chữa Ô Tô
P. 220
218 Đ Ứ C HUY
Khi thả lỏng phanh, lực nén của hệ thống thủy lực biến mất, vòng bít khôi
phục lại vị trí ban đẩu của mình, pittòng và má phanh dựa vào lực đàn hồi của
vòng bít và lực đàn hồi của lò xo sẽ di chuyển trở lại vị trí ban đầu, như hình 13 - 4
(b). Do lượng thay đổi hình dạng ở phẩn lưỡi của vòng bít hình chữ nhật rất nhỏ,
nên khi không phanh, rãnh giữa má phanh và đĩa mỗi bên chỉ còn trong khoảng
0,1 mm, điều này đảm bảo cho phanh được nhả ra.
(a)
(b)
Hình 13-3 Cấu tạo cơ bản Hình 13-4 Tinh trạng làm việc
của bộ phanh dạng đĩa calip của vòng bít pittông
1 - Vién bích của vỏ trục hoặc khớp chuyển hướng; (a) Khi phanh; (b) Khi nhả phanh
2 - Miếng đệm điều chinh; 3 - Pittông; 4 - Má phanh; 1 - Pittông; 2 - Vòng bít cao su hình
5 - Chốt dẫn hướng; 6 - Calip; 7 - Nan hoa xe; chữ nhật; 3 - ống phanh bánh xe
8 - Lò xo hói vị; 9 - Đĩa phanh; 10 - Viền bích vành xe
1.2. Phân loại bộ phanh dạng đĩa
Dựa theo hình thức cấu tạo của bộ phận cố định mà bộ phanh dạng đĩa có
thể được chia thành bộ phanh đĩa calip và bộ phanh toàn đĩa.
Bộ phận cố định của bộ phanh đĩa calip là calip phanh, má phanh trong
calip phanh được cấu tạo từ miếng ma sát có dung tích làm việc không lớn và
tấm đỡ kim loại của nó, mỗi một bộ phanh có từ 2 - 4 miếng. Bộ phanh loại đĩa
calip dựa vào hình thức cấu tạo của phẩn calip được cố định trên giá đỡ, có thể
chia thành dạng đĩa calip cố định và đĩa calip nổi, hình 13 - 3 mô tả bộ phanh loại
đĩa calipcố định.
Miếng ma sát và tấm đỡ kim loại của bộ phận cố định trong bộ phanh
dạng toàn đĩa đều được tạo thành hình đĩa tròn, vì vậy toàn bộ mặt làm việc của
đĩa phanh có thể cùng lúc tiếp xúc với mặt ma sát. Bộ phanh loại toàn đĩa do
kích thước bề ngang của calip phanh tương đối lớn, nên chủ yếu được sử dụng
trong các loại xe cỡ lớn.