Page 83 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 83
Đặc tính này càng về sau (nhất là từ 1945 cho tới nay), đã đần bị đảo ngược. Xuất
phát từ đặc điểm vùng văn hoá Nam Bộ, càng về sau tính chất động, dương tính, duy lý
trong tư duy người dân nơi dây càng rõ nét, đặc biệt tính cộng đổng và tính tự trị vốn có
của vùng nông thôn Việt Nam trước đây ngày càng lỏng lẻo hơn. Trên danh nghĩa, đình
và chùa là những kiến trúc cộng đồng, mọi người trong cộng đồng dàn cư đều có quyền
“bình đẳng” lui tới chiêm bái hay vãng cảnh, nhưng thực tế chúng không là tài sản
chung của cộng đổng dân cư thôn làng mà chịu sự chi phối hoàn toàn bởi cá nhân hay
nhóm nhỏ những “đại thí chủ” đã hiến cúng để trùng tu haỵ kiến tạo (theo quan niệm
“mạnh vì gạo, bạo vì tiền”). Do vậy, càng về sau (từ 1945 đến nay) vị trí đình chùa
thường dược chọn rất chủ quan theo ý muốn cá nhân hơn là lợi ích cộng đổng cư dân. Hệ
quả là, dinh Thần không được xây mới (Xem chương I), vị trí đình Thần vẫn tồn tại tại vị
trí cũ với chức năng thuần tín ngưỡng mang dấu ấn văn hóa một thời. Điều đó đổng
nghĩa với việc “lùi xa” so với trung iâm điểm dân cư mới trong quá trình phát triển đô
thị. Hạn hữu, trong điểu kiện khá tế nhị (kinh tế eo hẹp, quy hoạch mới...), sự hoán đổi
vị trí ngôi đình xa khu trung tâm hơn cũng là một thực tế (Ví dụ: Đình Vĩnh Bình - Tiền
Giang, đình Long Thạnh - Thủ Đức...). Trái lại, vị trí chùa Phât ngày càng xây mới
nhiều hơn (nhất là giai đoạn 1954-1975) và di cùng quá trình phát triển đô thị. Điều đó
đồng nghĩa với việc “tiến gần” đến trung tâm điểm dân cư mới, nhất là tại các đô thị lớn.
Chùa giờ đây không chỉ giữ chức năng tu học thuẩn túy mà đôi chỗ còn kết hợp thêm cả
chức năng kinh tế, văn hóa, xã hội khác v.v..., nhất là trờ thành trung tâm tổ chức, lãnh
dạo Phật giáo theo nhu cẩu đương đại.
3.1.1.2. Đặc điểm văn hóa biểu hiện qua quy hoạch tổng mặt bằng kiến trúc đình
và chùa Nam Bộ
Cũng xuất phát từ cội nguồn văn hoá Việt Nam - văn hoá ứng xử với môi trường tự
nhiên, chính khí hậu nhiệt đới và môi trưòng sông nước đã chi phối văn hoá vật chất của
người Việt Nam, trong đó có kiến trúc. Trong tổng mặt bằng kiến trúc đình, chùa, từ
nhiểu đời nay, luôn gắn liển mật thiết vói hai yếu tô' mặt nước và cây xanh tạo thành
những “danh lam thắng cảnh” hay “bến nước sân đình” (Xem hình 3.3). Đặc điểm mang
tính lịch sử này vẫn còn tồn tại cho đến giữa thế kỷ XX.
Riêng tại Nam Bộ, từ giữa thế kỷ XX trờ về trước, tổng mặt bằng kiến trúc đình, chùa
thưcmg là sự mở rộng của ngôi nhà vườn dân gian Nam Bộ (Xem hình 3.8), sau đó bố trí
thêm một số kiến trúc phụ khác theo nhu cầu sinh hoạt đặc thù của từng loại hình đình
hay chùa (Xem hình 3.9), cụ thể như sau:
- Đối với chùa, khối công trình chính thường theo hướng Nam (hướng gió tốt mà
người bình dân đương thời hay sử dụng) hoặc hướng ra mặt sông tiếp cận, vườn cây ãn
trái được bố trí ờ hướng Tây hoặc hướng Bắc so với khối công trình chính (hướng có
nắng nóng và gió lạnh), sân cảnh ở hướng Đông thường kít hợp với ao sen và lối vào.
Cách bố trí này hoàn toàn theo quan niệm xây nhà truyền thống dân gian Nam Bộ. cổng
84