Page 79 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 79

Như vậy, xát'về cỏng năng sử dụng của kiến trúc đình và chùa Nam Bộ, tuy có khác
            nhau, nhưng quá trình biến chuyển có sự tương đổng nhau và không gian kiến trúc lại rất
             ít khác nhau.  Thường chỉ là sự ghép nối thêm các “mô-đun” nhà giống như nếp nhà có
             trước hay tương tự để mở rộng Ihêm không gian sừ dụng.
               Để biến chuyển tổ hợp mặt bằng (không thay đổi chiều cao), đối với kiến trúc đình và
            chùa Nam Bộ (kể cả một số “nhà lớn” của các hào trường trong làng), thường chỉ là sự
            nối  thêm một nếp nhà mới  vào nếp nhà chính đã có sẵn,  về  phía sau hoặc  hai  bên theo
            kiểu “bát dần”, “nối đọi” hay “nối đọi có sân tương”; do vậy tổ hợp không gian kiến trúc
            thưcmg  giống nhau,  mặc  dù  chức  năng  sử dụng có  khác  nhau.  Đó cũng  là ]ý do nhiều
            kiến trúc nhà ở cùa hào trường trong làng đã dễ dàng “cài gia vi tự” ( Ĩ Í Í Ỉ Ệ Í M  t F )  (sửa nhà
            làm chùa) thành các  ngôi  chùa với  chức  năng  sử dụng mới  mà tổ hợp không gian kiến
            trúc không thay đổi. Tuy  nhiên, do chức năng sử dụng khác nhau nên kiến trúc đình và
            chùa cũng sẽ có những điểm khác biệt nhau từ cách chọn vị trí đến bố cục mặt bàng...
              Từ các  giá  trị  về  mặt  thời gian  và không  gian vãn hóa so với  các  loại  hình  văn  hóa
            khác như đã trình bày trên, cùng với đặc tính dân gian sẵn có, kiến trúc đình, chùa Nam
            Bộ đã trở thành bộ phận văn hóa tiẽu biểu của vùng văn hóa Nam Bộ.
              Văn hóa Việt Nam, tù thời dựng nước, đã gắn liển vói nển vãn minh lúa nước.
              Sau cuộc thiên di  vài ngàn năm truớc công nguyên tiến về phương Nam ấm áp, hình
            thành cư dân Nam Á - Bách Việt và Việt Nam sau này. Tiếp cận với khí hậu á - nhiệt đới
            rói  nhiệt  đới  nóng  ẩm  của  vùng  Trung  và  Nam  bộ,  tư  tưởng  “thuận  lý  -  trọng  tình”
             ơ n  s u i  tít) trở thành truyền thống chung của cả dân tộc.  Tuy có những thời kỳ bị  ảnh
            hưởng văn hóa với Trung Hoa hay sau này với các nước Phương Tây, nhưng dặc trưng cơ
            bản ấy vẫn “mặc nhiên” là cốt lõi cho các nghộ sĩ Viột Nam sáng tác và hiện diện trong
            các  tác  phẩm  nghệ  thuật  của  họ.  Bản  thân  kiến  trúc,  là  công  trình  nghộ  thuật,  cũng
            không nằm ngoài đặc trưng truyền thống ấy.
              Riêng vùng văn hóa Nam Bộ, tính chất “trọng tình” càng nổi trội hơn các vùng khác
            trong thời gian đầu, ít ra dến hết thời kỳ Tây Sơn. Sau đó,  trong sự tiếp biến văn hóa với
            các nước phương Tây và hoàn cảnh lịch sử “quá độ” với cái cũ, tư tường “thoát ly” hình
            thành, tạo tiển để cho hàng ioạt sự đổi mới theo chiều hướng “cách tân âu hóa”, tính chất
            “ưọng lý” dần dẩn hình thành và phát triển trong xã hội Nam Bộ sau đó lan ra trên phạm
            vi cả nước, nhất là ở những năm cuối thế kỷ XX đầy biến động.
               Cùng với sự phát triển vũ bão của nhũng thành tựu khoa học kỹ thuật, khoa học xây
            dựng ngày càng được bổ sung và cải tiến, khoảng cách không gian của tiến bộ và lạc hậu
            ngày càng bị thu hẹp, sự giao lưu vãn hóa tạo sự cọ xát mạnh mẽ giữa các nền văn hóa
            với nhau, tính tổng hợp cùa văn hóa nông nghiệp Việt Nam càng phát huy cao độ và cho
            ra  đời  những  sản  phẩm  vãn  hóa  nghệ  thuật  tiếp  biến  -  tích  hợp,  tuy  bước  dẩu  “chát
            lượng” chưa cao, nhưng đó là một hiện tượng hứa hẹn cho một kiến trúc Việt Nam tương
            lai, vừa mang đặc trưng truyền thống dân tộc, vừa mang tính hiện đại.
            80
   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83   84