Page 78 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 78
2.1.3.4. Tính chất dân gian trong kiến trúc đình, chùa Nam Bộ
Các công trình kiến trúc đình, chùa Nam Bộ hầu hết được kiến tạo bời chính công
sức, tài chánh, tư duy và sự sáng tạo nghệ thuật cùa người bình dân Nam Bộ, hiếm có
công trình nào sử dụng “công khố” để xây dựng (chỉ có chùa Khải Tường được vua
Minh Mạng trích quốc khố để trùng tu năm 1832 và dã bị cháy năm 1867), vì vậy
chúng mang tính dân gian rất cao. Nét vàng son quen thuộc chốn cung đình ít được tìm
thấy trong kiến trúc đình chùa Nam Bộ, thay vào đó là các màu sắc đen, nâu, gụ... dân
dã; Các hoa vãn kỹ hà cũng ít xuất hiện, thay vào đó là những họa tiết đời thường rất
thật, rất giản dị có nhiều tại địa phương như: Sóc, vịt, khổ qua, chuột, bẩu, bí... Đặc
biệt hệ kết cấu xà-kẻ-bẩy hay chồng ruờng-giá chiêng hoặc giả thủ... có cấu trúc tương
đối phức hợp được thay bằng kệ kết cấu “kèo đâm trinh cột kẽ” đom giản được sử dụng
rộng rãi trong kiến trúc dân gian Nam Bộ. Các hình thức vật liệu xây dựng như ngói
“máng xối”, đá ong, gạch tàu... cũng hoàn toàn giống với cấu trúc ngôi nhà dân gian
Nam Bộ. Ngoài ra chính tư duy nghệ thuật của người “thợ cả”, là một người trong giới
bình dân, dã tạo ra phong cách kiến trúc mang tính bình dân của đình chùa Nam Bộ
mà trong sáng tạo nghệ thuật, đỏi khi chính họ cũng không lường hết được các giá trị
tiềm ẩn (rong tác phẩm kiến trúc do chính họ tạo ra. Giá trị ấy chỉ do cồng chúng cảm
nhận được khi sử dụng.
2.1.3.5. Tổ hợp không gian gắn liền với dây chuyền chức năng sử dụng trong kiến
trúc đình, chùa Nam Bộ
Tại Nam Bộ, kiến trúc đinh là nơi thờ Thần làng, thờ các vị anh hùng, người có công
dựng làng, giữ nưốc... vể sau kết hợp thêm chức năng hoạt động hành chính, giao lưu
văn hóa cộng đổng... Xuất phát từ những chức năng phức tạp như vậy, tổ hợp không gian
kiến trúc đình dã không ngừng biến đổi. Từ ngôi “nhà vuông” mang kiểu mặt bằng “chữ
nhất” khá khiêm tốn, sử dụng cho nhu cầu thuán tín ngưỡng, chuyển sang tổ hợp mặt
bằng “chữ nhị” sử dụng kết hợp chức năng hành chính làng, và không lâu sau biến sang
tổ hợp mặt bằng “chữ tam” và “phức hợp” sử dụng cho chức năng giao lưu văn hóa cộng
đồng như vãn nghệ quần chúng, hát bội, lễ kỳ yên...
Cũng tại Nam Bô, kiến trúc chùa là nơi thố Phật, thờ các vị anh hùng nghĩa sĩ (như
chùa Sùng Đức-Sài Gòn thờ Nguyễn Trung Trực, chùa Tôn Thạnh-Long An thờ Nguyễn
Đình Chiểu...), thờ bá tánh... về sau kết hợp thêm chức năng hoạt động tôn giáo và hoạt
động xã hội... Cũng xuất phát từ những chức năng ngày càng phức tạp ấy, tổ hợp không
gian kiến trúc chủa cũng đá không ngừng biến đổi. Từ ngòi “am tranh” mang kiểu mặt
bằng “chữ nhất” sử dụng cho nhu cầu thuẩn tín ngưỡng ban dầu, chuyển sang tổ hợp mặt
bằng “chữ nhị” sử dụng kết hợp thêm chức năng hoạt động tôn giáo (làm giảng đường,
trai đường, trường hạ...) và không lâu sau đó biến sang tổ hợp mặt bằng “chữ tam”,
“phức hợp” và gẩn đây (giữa thế kỷ XX) xuất hiện dạng “lầu” nhằm đáp ứng nhu cầu sử
dụng cho các chức năng hoạt động phức tạp nhu trên.
79