Page 73 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 73
cảnh thường mang tính chất tự nhiên, ít trau chuốt, không có các sân lẽ hội lớn. Chức
năng ban đẩu của kiến trúc đình chùa Nam Bộ, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tâm linh.
Chỉ dến khi Tổ Nguyên Thiều vào hoằng hóa thì kiến trúc “chùa” mới bắt đẩu mang tính
vãn hóa cộng đồng và chỉ đến khi đình là nơi hội họp “việc làng” thì kiến trúc “đình”
mới bắt dầu mang chức năng sinh hoạt cộng đồng của làng xã. Thông qua các chức năng
sử dụng, chức năng thẩm mỹ, kỹ thuật xây dựng đương thời ấy, kiến trúc đình chùa Nam
Bộ đã tạo dựng nên một môi trường sinh hoạt đời sống và môi trường sinh hoạt tính thần
khá “khiêm tốn” và thích hợp cho người dân Nam Bộ bấy giờ.
2.1.3. Kiến trúc dinh, chùa - bộ phận vân hóa tiêu biểu cùa vùng vân hóa Nam Bộ
Văn hóa Nam Bộ được cấu thành bởi nhiều bộ phận văn hóa riêng lẻ, chúng dan xen
vào nhau và tạo thành một cấu trúc vãn hóa đặc thù. Chúng vừa mang nét chung cùa vãn
hóa Việt Nam, vừa mang nét riêng của vùng vãn hóa Nam Bộ.
Vãn hóa Nam Bộ đã cho ra đời nhiều di tích và sự kiện, trong đó có bản thân các
công trình kiến trúc. Kiến trúc dã được hình thành và tồn tại gần như bất di bất dịch tại
đây, là mảng văn hóa quan trọng của vùng vãn hóa Nam Bộ. Trong đó, hai loại hình kiến
trúc dinh và chùa có thể được xem là hai dặc trưng tiêu biểu cho nét đẹp văn hóa, văn
minh tại dây (Xem hình 2.23).
2.1.3.1. Giá trị thời gian văn hóa trong kiến trúc đình, chùa
Khi những tốp lưu dân Việt đầu tiên đến Nam Bộ, cùng với hành trang vật chất, hành
trang tâm linh họ mang theo, như trên đã trình bày, chính là đạo lý nhân-nghĩa, giáo lý
bình đẳng-đại dồng và tư tường vô vi-nhàn lạc cùa Nho-Phật-Đạo. Chính từ nhu cầu tâm
linh đòi hỏi, bên cạnh những ngôi nhà riêng lè, lưu dân Việt đã xây dựng thêm các
“công ốc” như “nhà vuông, am tự”, sau này phát triển thành “Phật tự, thẩn từ”..., làm cơ
sở đầu tiên cho sinh hoạt cộng đồng, tương tự như hệ thống “đình-chùa-miếu-vũ” ờ quê
hương bản quán của họ.
Như vậy, tại Nam Bộ, kiến trúc đình, chùa xuất hiện rất sớm, ngay từ những buổi đầu
khai khẩn đất hoang, từ khi chưa có thiết chế hành chính phong kiến (trước năm 1698).
Do đó có thể dễ nhận thấy rằng kiến trúc đình, chùa đã đi cùng với lịch sử khẩn hoang
Nam Bộ, là bộ phận vãn hóa lâu đời nhất của người Việt tại Nam Bô. Tuy nhiéu lần
“thay da đổi thịt” sau các tàn phá của mồi trường tự nhiên và xã hội, nhưng chức năng
ban đầu của đình, chùa - là nơi phục vụ nhu cầu tâm linh, nơi sinh hoạt cộng đồng của
người dân, rất ít thay đổi.
Minh chứng cho điều này có thể thấy qua sự xuất hiộn rất sớm của các công trình
kiến trúc đình, chùa mà một sô' ít còn tồn tại cho đến ngày nay như: Đình Thông Tây
Hội - Gò Vấp (1698) (Xem hình 2.24), Chùa Long Thiền - Biên Hòa (1664), chùa Bửu
Phong - Biên Hòa (1676) (Xem hình 2.25), chùa Tam Bảo - Hà Tiên (1680), chùa Đại
Giác - Biên Hòa (cuối thế kỷ XVII) (Xem hình 1.35)..., nhung hầu hết chúng không còn
74