Page 71 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 71

d) Văn hóa thương nghiệp tại Nam Bộ
              Nhu  cầu  tiêu  thụ  hàng  hóa  nõng  sản  là  một  thực  tế cùa  các  chủ  diền  tại  Nam  Bộ.
            Thương nghiệp đã  hình thành và phát  triển rất  sớm:  Một  Sài Gòn dô hội, một Cần Thơ
            trù  phú,  một Bạc  Liêu giàu có...  là hệ quả của sự phát  triển  ấy.  Vãn hóa thương nghiệp
            đã thay thế dần vãn hóa làng xã tại các vùng này sau đó lan tỏa đến một số địa phương
            quan trọng tại Nam Bộ như Rạch Giá, Mỹ Tho, VTnh  Long...  Năm  1842,  Tổng Đốc Gia
            Định  - Đặng Văn Hòa miêu tả cảnh buôn bán sẩm uất ở Sài Gòn: “Thanh nhún, Thổ hộ
            hoàn  tương tạp, Phật tự, Thẩn từ các tự khoa. P hố xá tỵ Hên cư vật hóa, Thủy litu oanh
            nhiễu  tập  chu jca”[54]  (Dịch:  Người  Thanh,  dân Thổ cùng ờ giáp nối  nhau,  Chùa Phật,
            đình Thần có kiểu  vẻ riêng.  Phố xá liền kề  cùng mua bán, sông nước  uốn lượn đầy đặc
            ghe  thuyền). Chính lối  sống mới và tư duy thương nghiệp là cơ sở hình thành mảng vãn
            hóa đô thị, tách dần khỏi văn hóa làng xã tại Nam Bộ.
              Nhìn chung, lối  sống và tư duy mới đã hình thành và phát triển theo chiều dài lịch sử
            hình thành và phát triển Nam Bộ.
              e) Văn hóa kiến trúc tại Nam Bộ
              Cùng với nhu cầu giao thương xuất hiện khá sớm, kiến trúc nhà ờ và công trình công
            cộng cũng là nhu cầu rất bức thiết tại  Nam Bộ. Làng mới cần có bộ mặt mối qua không
            gian  cảnh  quan.  Bên  cạnh  các  yếu  tô' tự nhiên  vô cùng  phong  phú,  kiến  trúc  là  yếu  tố
            nhân  tạo nổi  trội  nhất  trong  bao cảnh ấy, “bóng dáng” làng xã mang đặc  tính  Nam  Bộ
            cũng đuợc khẳng định chủ yếu từ yếu tố này.
              Việt Nam đã có truyễn thống sống hòa hợp với tự nhiên từ lâu đời, đặc biệt qua  lối
            ứng  xử với môi  trường  tự nhiền.  Kiến  trúc  chùa Thẩy,  một  yếu  tố nhân  tạo góp  phần
            cùng với  các  yếu tố tự nhiên khác như địa hình, mặt nước, cây xanh...  tạo thành  cảnh
            quan chung của vùng núi rừng Sài Sơn, hay Tháp Bút như một điểm nhấn đột khởi giữa
            bao  la đồng  ruộng  vùng  quê  sông  Đuống...  hoặc dáng chùa  thâm  thấp với  “rừng” cột
            gỗ liêm  vững  chãi  của chùa  Keo,  chùa  Mía,  chùa Trăm  Gian...  như sự thu  mình  chịu
            đựng  trước  bao phong  ba bão táp khá khắc  nghiệt của thiên  nhiên  Bắc  Bộ...  Đó là đòi
            nét kiến trúc đặc  trưng khá cụ thể minh chứng cho truyền  thống hòa hợp với  tự nhiên
            của người Việt xưa, chính nó là một trong nhiều yếu tố góp phần làm nên văn hóa kiến
            trúc Việt Nam.
              Duy trì truyền thống ấy, các lưu dân Việt, từ những buổi đấu khi đặt chân đến  vùng
            đất  Nam  Bộ,  đã  phát  huy  khá  tốt  yếu  tố truyền  thống  này  trong  việc  bô' trí tổng  mặt
            bằng đến  từng bộ phận chi  tiết kiến  trúc  riêng lẻ.  Chính  vì điều kiện  tự nhiên đặc thù
            cùa vùng Nam Bộ có đôi phần khác so với Bắc Bộ, cách ứng xử cũng có khác, theo đó
            vãn hóa kiến trúc đặc thù Nam Bộ cũng có khác. Đình, chùa Nam Bộ, ngay từ buổi đầu
            đã không  còn  mang dáng  vẻ  nặng  nề  thâm  thấp của đình chùa Bắc  Bộ  vì  thời  tiết tại

            72
   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76