Page 70 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 70
kiện xã hội khá động và nghiêng vể dương tính như thế rất phù hợp phát triển xã hội
theo chiều hướng công nghiệp.
b) Till ngưỡng và tôn giáo
Qua đặc điểm hình thành cộng dổng dân cư Nam Bộ cho thấy, các yếu tố tín ngưỡng
tôn giáo mà các lưu dân Việt mang theo đã được “bình dân hóa”, họ đã dánh dồng tín
ngưỡng và tôn giáo với nhau, kể cả với tín ngưỡng bản địa. Ban đẩu, các hoạt động tôn
giáo tín ngưỡng chì nhằm thòa mãn nhu cầu tâm linh, cầu sự bình yên hơn là Iu học,
chùa không có cao tăng trụ trì. Thẩn, Phật, Thánh, Tiên... cùng được xem là các “đấng
siêu nhiên” có quyền năng ban phước giáng họa. Càng về sau tính cách này càng được
thể hiện rõ ràng hơn, mặc dù đã xuất hiện các nhà sư chuyên tu. Hệ quả của các quan
niệm này đã tạo ra sự biến thể tín ngưỡng và tôn giáo trong văn hóa làng xã tại Nam Bộ
so với Bắc - Trung Bộ, tín ngưỡng và tôn giáo Nam Bộ đã hòa quyện vào nhau, đều được
bình dân hóa và rất gần gũi với người dân Nam Bộ.
c) Quan hệ phong kiến
Khoảng hơn 100 năm, trước khi kinh lược sứ Nguyễn Hữu cảnh vào lập chính quyền
và chia đật phủ huyện năm 1698, lưu dân Việt Nam đã tự động và tự quản tới lập nghiệp
tại Nam Bộ. “Clio nên đối với nông dân tại đây, ruộng nương cày cấy được không phải là
do “ƠII vua, lộc nước", mà tlo chính mồ hôi và nước mắt cần cù lao động cùa mình tạo
nên" [10]. Chính quyển chưa có nên chưa thể có “công điển, công thổ”. Đất đai khai phá
đến đâu đểu thuộc người lưu dân tới đó. Đây là giai đoạn khai hoang êm thấm, hữu hiệu
đặc biệt hiếm có ờ nước ta. Đặc điểm này giải thích vì sao ngưòi dân Nam Bộ không “mặn
mà” và “tận trung” với triều đình phong kiến đương thời. Ngược lại, việc tổ chức chính
quyền chỉ là chính thức hóa một sự kiện đã rồi, thu thập vào bản dồ Việt Nam những phần
đất hoang đã được khẩn khai bởi sức lao động cùa chính nhân dân mình. Đặc tính này
cũng là một biến thê vãn hóa làng xã tại Nam Bộ. Chính đo đạc tính này, từ những buổi
đẩu khi người Phấp xâm lược Việt Nam, trong khi triều đình phong kiến thỏa hiộp với
Pháp, người dân Nam Bộ đã “dụng cò bình Tây”, lên án hành động bán nước, bỏ dân của
vua quan nhà Nguyễn: “Phan - Lâm mãi quốc, triểu đình khí dân”, bất chấp sự bức bách
của triều đình phong kiến sau hàng ước 05/06/1862. Tiếp sau đó, phản ánh qua vãn thơ
Nam Bộ, hàng loạt các phản kháng chế độ phong kiến đã nổ ra như:
Rủng: “Xưa, Lục tỉnh giang san,
Tiên vương thổ địa hú bàn nhường ai ?”
Triêu đình sợ việc chẳng hài,
Tính đem ông đến pháp đài nạp ngay.
Nam triều thê sự lạ thay !
(Vè Trương Định) [15].
71