Page 87 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 87
Tại Nam Bộ, bất kể đó là “nhất” hay “tam” quan, vị trí của chúng thường không nằm
giữa trục chính trung (thần đạo), mà nằm lệch vể một phía trong mặl bằng tổng thể.
Ngày nay, trong điểu kiện “chật hẹp” của mặt bằng, cổng đình, chùa thường chọn ờ vị trí
thuận tiện mà không theo một định chế gò bó nào.
e) Mộ tháp
Đây là kiến trúc ngoại thất đặc trưng cho mảng chùa. Thường mộ tháp ít đứng độc
lập mà được phối kết thành một “vườn” tháp. Vị trí “vườn tháp” thường nằm một bẽn
chùa, chếch về phía sau, ít thấy nằm vị trí trước chánh diện (theo giới luật Phật Giáo).
Hình thức mộ tháp có xu thế đổi mới nhanh hơn hình thức kiến trúc chùa đương thời.
Chúng rất đa dạng và phong phú từ dạng thức vuông bôn cạnh (liên tường đến Tứ Vô
Luợng Tâm - Từ, bi, hỉ, xả) không chân đế phổ biến tại miền Bắc... đến
vuông bốn cạnh có chân đế thấp tại Trung... và cuối cùng “biến tướng” trờ thành 4
cạnh chân đế cao tại miền Nam.
Hình 3.12. Ba kiểu mộ tháp Bắc (chùa Diên Hựu), Trung (chùa ThuyênTỡn),
Nam (chùa Giác Lám). [Nguồn: VõVăn Tường]
Bên cạnh đó, hình thức mộ tháp 6 cạnh (liên tường đến Lục Hoà /\ f n - Thân hoà,
khẩu hoà, ý hoà, giới hoà, kiến hoà, lợi hòa) chân dế rất cao trở thành nét đặc thù phổ
biến được sử dụng rộng rãi tại Nam Bộ (Xem hình 3.6). Đây là một biểu hiện của văn
hóa ứng xử với môi trường tự nhiên về hình thức, nhằm thích hợp với địa hình thấp trũng
tại Nam Bộ qua kiến trúc chân đế cao. Đồng thời xuất phát từ đặc điểm hình thành vùng
văn hoá Nam Bộ (xem mục 1.2.2), chữ “hòa fn” là phương cách hành dạo phù hợp nhất
trong hoàn cảnh cộng cư lúc bấy giờ, nó đã thay thế chữ “tâm của phương cách hành
đạo trước đó trong xã hội Việt Nam tương đối ổn định ở Bắc Bộ.
88