Page 90 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 90

c) Dạng chữ tam ( ^ )
            Đây là dạng mặt bằng với ba nếp nhà liền kề nhau, đều dạng “ngũ hành”, hoặc cách
          khoảng một  nếp nhà  bằng  sân  “thiên  tỉnh” để  tạo  sự thông  thoáng  cẳn  thiết cùa kiến
          trúc  vùng  nhiệt đối  nóng  ẩm.  Có  thể  xem  đây  là  một biểu  hiện cùa đặc  tính  văn  hoá
          ứng xử với môi trường tự nhiên của người dân Nam  Bộ. Rất nhiều đình, chùa Nam Bộ
          được hoàn chỉnh theo dạng  thức mặt bằng này.  Có  thể đơn cử như các đình Gia Lộc  -
          Tây  Ninh,  Tàn  Lân  -  Biên  Hòa,  Hiệp  Ninh  -  Tây  Ninh,  Thới  Tam  Thón  -  Hóc  Môn
          (Xem  hình  3.16)  hoặc các chùa  Bửu  Phong - Đổng  Nai,  Kim  Cang  -  Long An,  Phước
          Lâm - Tây Ninh,...
            d) Dạng phức hợp
            Đây cũng là dạng mặt bằng khá phổ biến tại Nam Bộ với sự kết hợp nhiều chức năng
          sử dụng trong  một còng  trình.  Đây  là một biến cách cùa dạng mặt bằng đăng đối  theo
          trục,  biểu hiện sự linh  hoạt cùa văn hoá  Nam Bộ trong bố cục mặt bằng.  Ngoài tòa đại
          diên hình chữ nhất, nhị  hay chữ tam, theo dạng ngũ hành, trong tổng thể mặt bằng còn
          có thêm nhiều nếp nhà khác giữ chức năng bổ trợ cho hoạt đỏng như nhà túc,  võ ca, võ
          qui, giảng đường,  vãng  sinh đường,  tháp  thờ cốt  (Xem  hình  3.128)...,  hoặc  nhiều điện
          thờ phụ khác, đây là đặc điểm khác biệt khá rõ so với đình chùa Bắc Bộ. Có thể thấy qua
          các đình Bình Thủy - Cần Thơ, Mỹ Phước - An Giang, Bình Đông - TP.HCM,  hoặc các
          chùa Giác Viên - TP.HCM (Xem hình 3.13), Phước Tường - Thủ Đức, Nam Thiên Nhất
          Trụ -Thú Đức, Vạn Hạnh - TP.HCM,...
            Ngoài  ra,  các  dạng  thức mặt  bằng  truyền  thống  có giao mái  phức  tạp như chữ đinh
          (T), chữ công (I) hoặc nôi công ngoại quốc (ỊxỊ) rất hiếm thấy tại Nam Bộ.
            e) Dụng lầu
            Đối với hầu hết chùa (không có đình) tân tạo trong các thành phố lớn như thành phố
          Hồ Chí Minh, đất đai  xây chùa thường rất  hạn chế. Xuất phát từ đặc điểm  hình thành
          vãn  hoá  Nam  Bộ  qua  sự tích  hợp  văn  hoá  vởi  phương  Tây  và  đặc  tính  linh  hoạt của
          truyền thống văn hoá trọng tình, để đáp ứng nhu cầu sử dụng, mặt bằng kiến trúc chùa
          đã phải  vươn  lèn  theo chiều cao thành các  “chùa lẩu”. Với dạng mặt bằng này, chính
          điên và tổ đường thường được đưa lên lầu tương đương nếp nhà thứ nhất theo kiểu chữ
          nhị  hay chữ tam  truyền  thống;  tầng  trệt thường  sử dụng  làm  giảng  đường,  nhà khách
          hoặc  trai  đường.  Ngoài  ra,  kết  họp  với  nếp  nhà  lầu  chính  còn  có  thêm  một  số công
          trình  phụ  khác  như nhà  trà  (bếp),  tăng  phòng  (phòng  ở các  tu  sĩ),  thư viện...  Có thể
          thấy dược  dạng  thức  này qua nhiều chùa tại thành  phố như:  Vĩnh  Nghiêm  - TP.HCM
          (Xem hình 3.18, 3.19), Xá Lợi - TP.HCM, Ấn Quang - TP.HCM, Ni Viện Thiện Hòa -
          Long  Thành,  Bửu  Liên  -  TP.HCM,  Từ  Hiếu  -  TP.HCM,  Tuyền  Lâm  -  TP.HCM,  Già
          Lam - TP.HCM.
                                                                      91
   85   86   87   88   89   90   91   92   93   94   95