Page 89 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 89

cổng tam quan cũng xuất hiện trờ lại trong tổng thể khuôn viên đình, chùa. Để thích
            ứng cho khuôn  viên  hạn  hẹp của dinh, chùa trong giai đoạn  này,  mộ tháp xuất hiện  rất
            hạn chế, các kiến trúc thờ tự phụ như miếu ngũ hành, miếu cô hồn, bị mất dần.
              d) Giai đoạn 1975 đến nay
              Từ  1975  đến  1985, về cơ bản vẫn  không có sự Ihay đổi  lớn so với giai  đoạn tiếp cân
            trước đó. Sau hơn  10 nãm “đóng băng” trong kiến trúc,  thời gian sau  1985 cho đến nay,
            kiến  trúc đình,  chùa  gấn  như mất định  hướng,  mỗi  công  trình  “tự phát”  xây dựng  theo
            kiểu riêng, thiếu sự thống nhất vể hình thức tổng thể.
              3.1.2.  Đác điểm vân hóa biểu hiện qua hình thức kiến trúc đình, chùa Nam Bộ
              3.1.2.1.  Đặc điểm  văn hóa biểu hiện qua giải pháp mặt bằng kiên trúc
              Nhìn  chung,  trong  cách  tổ  chức  mặt  bằng  giữa  dinh  và  chùa  Nam  Bộ  tuy  có  khác
            nhau, nhưng hình thức mặt bằng thường giống nhau. Bằng cách phân định dạng thức mặt
            bằng  theo Hán  tự thường gặp, có thể nhận thấy mặt bằng  kiến trúc đình,  chùa Nam  Bộ
            qua các dạng thức quen thuộc như sau:
              a) Dạng chữ nhất ( —)
              Xuất hiện  sớm  nhất và  đơn  giản  nhất  với  sự mờ rộng  cùa  ngôi  nhà dân  gian  Nam
            Bộ.  Tuy  nhiên  cái  khác  cơ bản  của  mặt  bằng  nhà  ở dân  gian  và  đình,  chùa  là:  Mạt
            bằng  đình, chùa thường  có  hình  vuông  với bộ “tứ trụ” tạo thành  kiểu  nhà “ngũ  hành
            iỉÍT ”  (nhiều  còn  gọi  là  nhà  “tứ  tượng  ESíiỉ.”)  (Xem  hình  3.22),  đặc  trumg  cho  loại
            hình kiến trúc thờ tự tại Nam  Bộ mà  người dân không được cất để ở.  Hiện tượng kiến
            trúc  này cho thấy,  buổi  đẩu,  từ giữa thế kỷ XIX trờ về trước,  văn  hoá  nhận  thức  qua
            âm dương, tam tài, ngũ hành là dấu ấn tinh thần sâu dậm trong tâm thức nguời Việt ly
            hương.  Hầu hết các đình, chùa Nam Bộ khi mới  khởi  lập đểu có dạng này.  Ngày nay,
            dạng  mặt  bằng  chữ “nhất”  có  thể  thấy  qua kiến  trúc  các  đình,  chùa  xuất hiện  muộn
            như  dinh  Xuân  Hòa  -  TP.HCM,  Nguyễn  Trung  Trực  -  Phú  Quốc,  Tân  Himg  -  Cà
            Mau,...  hoặc  các  chùa  Long  Hưng  -  Sông  Bé,  Thiền  Lâm  -  Tây  Ninh  hay  Hội  Thọ  -
            Tiển Giang....
              b) Dạng chữ nhị ( ■-■)
              Đó  là cách mở rông  mặt bằng  theo kiểu  nhà “bát dẩn” hay  “nối đoại”  tại  Nam  Bộ,
            một nếp nhà thứ hai, cũng dạng ngũ hành, kế nối nếp nhà thứ nhất theo thứ tự tiền hậu
            làm cho mặt  bằng đình, chùa mở rộng  hơn.  Đây  thường là bước chuyển tiếp phát  triển
           không  gian  đình,  chùa.  Có  thể  thấy  được  qua  mặt  bằng  các  đình  Nguyễn  Hữu  Cảnh  -
            Biên Hòa, Mỹ Lộc - Long An, Bình Chánh - TP.HCM, Phú Lâm - TP.HCM, Bình Tiên -
           TP.HCM (Xem hình 3.15),... hoặc các chùa Phước Hung - Đồng Tháp, Huệ Quang - Bến
           Tre, Lưỡng Xuyên - Trà Vinh...

            90
   84   85   86   87   88   89   90   91   92   93   94