Page 62 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 62

d)      Bản sắc vân hóa Việt Nam trong giao hm với văn hóa Trung Hoa
            Bằng  lối  tư duy  biện chứng, mang  tính chù quan,  tương đối, trong giao lưu  văn hóa,
          người Việt đã tiếp nhận các giá trị  vàn  hóa ngoại  sinh theo một trình tự khoa học:  Tiếp
          thu,  chọn  lọc,  nâng cao,  biểu  hiên.  Họ đã tận dụng được các  tinh  hoa văn hóa của các
          nước  láng  giỂng,  chọn  lọc  một  sô' yếu  tô' có lợi,  sau đó  biến  cải  cho  phù  hợp  vói  điều
          kiện  Việt  Nam  và đưa  ra sử dụng.  Qua quá  trình  tiếp nhận  như trên,  các  yếu  tố “gốc”
          khống còn nguyên vẹn qua quá trình hội nhập vào Việt Nam. ‘Tạo ru sự khúc biệt trong
          cái dồng nhất đó chinh là bản sắc văn hóa Việt Nam” [12].
            Từ dầu cồng nguyên,  Hán Nho đã theo bước  chân  xâm  lược  phương Bắc áp đặt vào
          Việt  Nam  phục vụ  cho việc  thống trị.  Chính vì  xuất phát điểm  như trên,  giai đoạn đầu
          truyền bá, “Nho Giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam" [40], Cho đến gần cuối
          đời Trần,  Nho giáo vẫn chưa được chấp-nhận rộng rãi.  Mãi đến triều Hậu Lê, Nho giáo
          mới  trở thành  quốc  giáo  và thịnh  suy  theo bước  thăng  trầm  của  triều  đình  phong  kiến
          Việt Nam.  Khác vói tầng lớp thống trị,  bằng sự dè  chừng cần thiết, đa phần người  Việt
          Nam  (bộ phân nhăn dân) đã tiếp nhân từng yếu tô' riêng lè của Nho giáo và tích hợp lại
          (tiếp thu, chọn lọc, nâng cao, kế thừa) theo cách của mình, biến các yếu tố này thành đặc
          trưng Việt Nam. Có thể đơn cử như sau:
            - Chữ viết:  Sau khi  Bắc  thuộc, chữ Việt cổ  (có thể có) bị xóa di, chữ Hán-Việt xuất
          hiên qua quá trình tiếp biến văn hóa với Trung Hoa. Tiến xa hcm, cuối thời kỳ Bắc thuộc,
          chữ Nồm ra đời là kết quả của sự tích hợp vãn hóa mà thành.
            -  Khi  tiếp nhận  Nho giáo, người  Việt  Nam  tâm đác với  hai đạo lý nhân-nghla (trong
          “ngũ thường” - nhân, nghĩa, lý, trí, tín) và biến nó thành tình người (nhân dạo, nhân tình).
            - Tính chất “máy móc”,  hà khắc của Nho giáo bản địa khi “cọ xát” với tính dân chủ
          truyền thống Việt Nam, đã bị hạn chế.
            - Tư tường “trung quân” là tuyệt đối trong Nho giáo Trung Hoa, nhưng vãn hóa Việt
          Nam  tiếp biến nó thành sự tương dối.  Đối với Việt Nam, trung quân phải đổng thòi với
          ái quốc  (từ ý thức độc lập dân tộc), vì vậy, khi mâu thuẫn giữa vua với sự tổn vong của
          đất nước xảy ra, bầy tôi hướng về đất nước, dân tộc, sẵn sàng phế vua.
            Nhận định khái quát trên cho thấy,  trong quá trình tiếp xúc với  vãn hóa Trung Hoa,
          người  Việt Nam,  thỏng qua quá trình  tích hợp, đã “Việt hóa” các tư tường  tiến bộ của
          Trung Hoa thành tư tưởng của riêng mình. Tuy hình thức hay iên gọi có thể không khác
          với  nguyên  bản,  nhưng  nội  hàm  đã  ihay  đổi.  Tư tuờng  “trọng  lý” của  triết  học  Trung
          Hoa đã được tích hợp thành tư tường “trọng tình” của Việt Nam.

            2.1.2. Đặc điểm vùng văn hóa Nam Bộ
            2.1.2.1. Đặc điểm cộng đồng dán cư Nam Bộ
            - Đặc điểm đất đai, lãnh thổ, dân cư:

                                                                      63
   57   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67