Page 59 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 59
2.1.1.3. Một số quan điểm triết học được người dán Nam Bộ nhận thức và sử dụng
trong kiến trúc đình, chùa
Khi nghiên cứu các biểu hiện lịch sử, dù trừu tượng hay cụ thể, các nhà nghiên cứu
thường đặt chúng vào bối cảnh lịch sử cụ thể lúc xuất hiện các biểu hiện ấy. Cũng vậy,
khi nghiên cứu các vấn đề văn hóa, triết học trong kiến trúc cùa người dân Nam Bộ, tác
giả cũng đã đặt chúng vào hoàn cảnh xuất hiện các kiến trúc, nhất là các quan điểm tạo
tác cùng thời để ]ý giải; các quan diểm này có thể chưa đúng hoặc không chính xác với
các quan diểm tương đương trong triết học “thành văn”, nhưng đó lại là một thực tế
trong tạo tác lúc bấy giờ; trong trường hợp này x ó thể xem các quan điểm khác lệch trên
như một “phưcmg nghĩa” (nghĩa địa phương) của Nam Bộ.
a) Quan điểm "úm-dươiìg” qua nhận thức của người dân Nam Bộ thể hiện trong kiến
trúc đình, chùa:
Công đồng cư dàn Nam Bộ được hình thành trên cơ sở cộng cư nhiểu dân tộc với
nhau, đa số là những lưu dân tha phương, khốn khó, ít chữ... Từ buổi ban đầu khi mới
đến đây, hầu hết họ chỉ mang theo mình những đồ “tế nhuyễn” phục vụ cho nhu cầu tối
thiểu của cuộc sống, cùng với “ký ức” văn hóa nơi quê hương bản quán của họ để làm
hành trang tâm linh. Chính vì vậy, tại Nam Bộ 300 năm trước, các văn tự “thành văn”
(sách vở, văn bản...), gần như không có điểu kiện tiếp cận với đại bộ phận nhân dân.
“Mù chữ” là hiện trạng xã hội khá phổ biến tại Nam Bộ, ít ra đến giữa thế kỷ XX. Đối
với dại bộ phận nhân dân Nam Bộ (trừ một số rất ít các nhà trí thức như “Gia Định Tam
Gia”, các thi nhân cùa “Bình Dương Thi Xã”, các vãn sĩ ở “Tao Đàn Chiêu Anh Các”
hoặc Nguyễn Đình Chiểu, Vươn"g Kế Sinh, Huỳnh Ngọc uẩn, Đặng Đức Thuật...), họ
chỉ tiếp cận với văn học dân gian là chủ yếu qua các loại hình văn chương truyền khẩu
như: Vè, hò, ca dao, tục ngữ, hát đối, dân ca... Trong điều kiện ấy, các nguồn triết học
thành văn, nói chung, khó thâm nhập vào công chúng Nam Bộ. Qua đây cho thấy, thuyết
âm-dương là sản phẩm cùa triết học Trung Hoa và các nguồn triết học khác có nội dung
sâu sắc phức tạp; rất có thể xa lạ với nhân dân ít chữ, khốn cùng tại Nam Bộ vào các thế
kỷ trước. Với họ, các quan điểm “triết học” cổ xưa được đơn giản hóa rất nhiều dể dễ
dàng tồn tại qua ký ức,vì vậy “liên tưởng qua ký ức” rất phổ biến đối với giới bình dàn
Nam Bộ.
Với người bình dân Nam Bộ truớc đây (giữa thế kỷ XX trờ vể trước), các biểu hiện
âm-dương (PỀPẵ) trong kiến trúc, chủ yếu qua liên tưởng, được hiểu nhu sau:
- Với “âm ị^ ” biểu hiện qua các yếu tố: Lạnh, tĩnh, bên trong, tìnb cảm, nội dung, lý
thuyết - ước mơ, đất, màu lạnh, nét ngang (hoành), hình vuống, rỗng, khối tõm, âm
thanh trẩm, mềm (nhu), sô' chẵn, trừu tượng, chủ quan, tương đối, tổng hợp, giống cái,
võ, nước, tối, tử, kết thúc, hướng Tây...
- Với “dương Pề” biểu hiện trái lại qua các yếu tố: Nóng, động, bên ngoài, lý trí, hình
thức, thực hành - hiện thực, trời, màu nóng, nét đứng (trực), hình tròn, đặc, khối lồi, âm
60