Page 152 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 152

Vòng “tương sinh” bộ ba này đã tồn  tại  và tiếp nối triển miên theo dường  xoáy trôn
           Ốc,  từ  nguyên  thủy  cho  đến  ngày  nay,  như nhận  thức  về  “tam  tài” Thiẽn-ĐỊa-Nhân đă
           từng chi phối tư duy người Việt Nam. Trong tổng thể kiến trúc đình, chùa Nam Bộ, các
           nhà xây dựng đã kiến  lập các công  trình kiến trúc theo nguyên tắc tương sinh  trên.  Họ
           dã  do  đạc  kích  cỡ các  bộ  phân  kiến  trúc  lấy  chuẩn  từ  kích  thước  con  người  qua  cây
           “thước tầm” mà đơn vị của nó chính là “đốt gốc  ngón tay út người chủ nhà”. Điều này
           đã  tạo  nên  sự phù  hợp,  ít  ra  về  nguyên  tắc,  vái  chù  nhân  công  trình  ấy.  Kiến  trúc  đã
           mang “mô-đun” (module) cùa con người.
             Số  lượng  các  công  trình  kiến  trúc  chính  yếu  trong  mỗi  đình,  chùa  là  cụ  thể  nên
           thường  mang  số  lẻ  như  1  (dinh  Tân  Hưng-Cà  Mau),  3  (chùa  Giác  Lâm-TP.HCM),  5
           (chùa  Vĩnh Tràng-Mỹ  Tho) v.v...,  nếu có số lượng công trình  chẵn chỉ  là bước  chuyển
           không  tồn  tại  lâu.  Tư duy  số lẻ  đã  trờ thành  nguyên  tắc  thiết  kế trong  kiến  trúc  đình,
           chùa Nam Bộ.
             Khi  xây  dựng  tổng  thể  một  công  trình  kiến  trúc  đình,  chùa,  các  nhà  kiến  trúc  xưa
           thường tuân theo vòng ngũ hành tương sinh  iĩÍT +Sík. Đó là lý do giải thích tại sao khi
           chọn  vị  thế kiến  lập  đình,  chùa,  người  xưa  thường
           tuân thủ  nguyên  tắc:  Bắc  hắc qui  (Đen-thủy),  Nam   l \ u i l l
           hồng phượng (Đỏ-hỏa), Tà thanh long (Xanh-mộc),
           Hữu bạch hổ  (Trắng-kim). Tại  Nam Bộ, vùng đồng
           bằng,  ít  núi,  khó xác định “thế đất” bằng địa hình,
           người  ta  đã  tạo  “thế đất”  bằng  địa  vật.  Cụ  thể  là:
           Phía Nam thường trồng Cau (trước cau), cây cau có
           thân  thon,  suông,  thẳng không tẻ  nhánh  nên  không
           cản gió tốt từ phương Nam hay Đông nam thổi đến,
           tàu  lá  cau  írên  cao  có  thể  che  một  phần  nấng  trưa
           hắt vào nhà, đổng thời tàu lá cau tương tự đuôi chim
           phượng  tượng  trưng dịa vật phương Nam  (hổng phượng).  Phía Bắc thường  trổng Chuối
           (sau chuối), cây chuối có thân thấp,  tán lá dẩy nên có thể cản gió lạnh từ phương Bắc
           thổi  đến,  tàu  lá  chuối  có  dáng  mô  khum  tương  tự mai  rùa  (qui)  tượng  trưng  địa  vật
           phương Bắc  (hắc qui).  Phía Tây  thường  là  vườn cây ăn  trái  tượng  trưng  rừng  rậm  nơi
           hổ thường trú ngụ. Vuờn cây trái cao, to, rậm... còn để che nắng xấu hướng Tây, “rừng
          cây" tượng trưng địa vật phía Tây.  Phía Đóng thường  có ao nưóc hay dòng  sông  xanh
           uốn lượn chảy quanh như rồng xanh (thanh long) uốn khúc, thế ao nước  hay con  sông
           phía dòng nhằm tạo thế khoáng đãng có thể đón nắng ấm ban mai và gió đông mát mẻ
           (gió mang hơi  nước do ao hay sông bốc lên khi gặp nắng), đồng thời nó còn là nguồn
           nước  chính  yếu  sử dụng cho “nhà trù” (bếp phía Đông),  ao  hay  sông  tượng  trưng dịa
          vật phía Đông.

                                                                      153
   147   148   149   150   151   152   153   154   155   156   157