Page 135 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 135

về văn minh bản địa, thành tựu lớn cùa Phù Nam nhiều thế kỷ trước là kỹ thuật gốm
           sứ, hầu  hết các đi chỉ khảo cổ tại  Nam  Bộ dều có vật dụng gốm với hoa văn phong  phú
           thường  mang dạng kỷ  hà  hay  cách  điệu  của hoa lá,  sóng  nước  (Xem  hình  3.94).  Gạch
           đất nung  trong  kỹ  thuật  xây dựng cũng đã được  người  Phù  Nam  sử dụng  rất  lâu  (Xem
           hình 3.93). Đặc biệt sự xuất hiện sóng đỏi của di tích kiến trúc và hồ nước khá phổ biến.
           Chế lác gỗ, đá cũng  là kỹ thuật nổi bậl của người  Phù Nam, đặc biệt là liên kết “mộng"
           (không  đóng  đinh  như  hiện  nay)  rất  tinh  xảo  và  mỹ  thuật.  Nhiểu  công  trình  hỗn  hợp
           gạch đá  đã được  tìm  thấy “ró thể kề đền  Chót Mạt,  nlióm Prei Cek, Chòm Mả (cáu An
           Hụ), Cái Tháp (Đức Hòa),...  thường thường lù nliững kiến trúc gạch đá hỗn hợp đơn lẻ,
           hình đồ có dung vuông" [15|.
             Mặc dù:   xã  hội hậu Oc Eo ở  đồng bằng Nam Bộ hầu như đã phải trở lại với nén
           kinh  tê  tự cung  tự cấp,  lấy  nông  nghiệp,  săn  hắt,  đánh  cá  làm  chỗ dựa  chính...  Tuy
           nhiên,  sức  sống  nội  tại  cùa  ruột nền  văn  minh  lớtì  như Óc Eo,  trong  những điều  kiện
           không thuận lợi đó, đã có thể duy trì trong mấy thế kỷ tiếp theo” [15],... cho đến khi các
           lưu dân Việt-Hoa đến sinh sống tại dây vào thế kỷ XVII.  Lưu dân Việt-Hoa đã tích hợp
           các thành tựu kỹ thuật nảy trên nền tảng kỹ thuật truyền thống, biến chúng thành những
           đặc trưng vãn hóa Việt Nam tại Nam Bộ. Cụ thể như:
             - Kỹ thuật gốm  sứ địa phương đã được người Việt tiếp tục  phát triển và nâng cao qua
           quá  trình  tích  hợp  song  song  với  kỹ  thuật  gốm  sứ truyền  thống  Việt  Nam,  nhất  là đua
           chúng vào lĩnh vực xây dựng, rất nhiều vật trang trí bằng gốm sứ tinh xảo được tìm thấy
           trong kiến trúc đình, chùa Nam  Bộ như bộ “Thất  Hiền” trên nóc chùa Giác  Lâm,  tượng
           “rồng sứ”, “cá hóa long” trên  mặt dựng chùa Long Thiền,  nhóm  tượng trang trí “lưỡng
           long  triều  nguyệt”,  tượng “Nhật  Ông  -  Nguyệt  Bà”  trẽn  đỉnh  nóc  đình  Tân  Lân  (Xem
           hình 3.97)... là những minh chứng.
             - Đặc biệt cặp sóng dôi kiến trúc và hồ nước  dược dân  gian  sử dụng rộng  rãi.  Nâng
           lên tẩm cao mới  qua tích hợp văn hóa,  hổ chứa nưóc  mưa, ao sen hoặc cách điệu thành
           non bộ - sơn thủy (Xem hình 3.92b) trang trí bẽn cạnh kiến trúc trong tổng thể kiến trúc
           đình, chùa, v.v...  là những tồn tại cụ thể.  Nhờ vào tính thực dụng và yếu tố thẩm mỹ hài
           hòa bản thân nó mang lại cho cõng trình kiến trúc, cặp sóng đôi  này trờ thành đặc tính
           kiến trúc phổ biến tại Nam Bộ.
             -  Kỹ  thuật  mộng  gỗ  cũng  được  người  Việt  tích  hợp trong  chế tác  gỗ,  cùng  với  kỹ
           thuật mộng gỗ truyền thống, nhiều hình thức mông gỗ mới đã ra đời. Đặc biệt các môi
           giao kèo  phức  tạp  trong  bộ  khung  sườn  gỏ  Nam  Bộ  (Xem  hình  3.82)  cũng  là  sự tiếp
           thu  và  nâng  cao  từ kết cấu  gổ  bản  địa  trên  cơ  sờ kỹ  thuật  kết  cấu  truyền  thống  Việt
           Nam. Ngoài ra, phương thức xây dựng hỗn hợp gạch đá hay gỗ gạch của người bản địa
           (gẩn  giống  phương  thức  xây  dựng  người  Việt)  được  lưu  dân  Việt  tiếp  biến,  bổ  sung,
           hoàn thiện  và  sử dụng  nliuẳn  nhuyễn  trong  hầu hết các công  trình  kiến  trúc  có  giá  trị
           tại Nam Bộ.

           136
   130   131   132   133   134   135   136   137   138   139   140