Page 132 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 132
tháp Hòa Phong - chùa Dâu, nhà bia đền cổ Loa, v.v... Ngoài ra, việc thờ phụng đa thẩn
trong đình, chùa cũng là sự dung hợp tín ngưỡng mang tính truyển thổng Việt Nam,
trong phạm vi nghiên cứu kiến trúc, tác giả chưa xét đến.
Trong cách thức tổ chức mặt bằng kiến trúc giữa
đình và chùa cũng có sự biến đổi linh hoạt: Nhìn
chung, vể mặt cắt không gian kiến trúc, đình và
chùa gẩn giống nhau, đó là những nếp nhà “ngũ
hành” xếp “bát dần” hay “nối đọi” theo một trục
“chính trung” tạo thành dạng chữ nhất, chữ nhị hay
chữ tam (căn cứ vào chiều cây “đòn dông”), thường
có “sân tương” (patio) ờ giữa; càng về sau lối cấu
trúc này có sự biến cách cho phù hợp với nhu cầu
đương đại. Tuy nhiên, phương cách sử dụng mặt
bằng có khác giữa đình và chùa (Xem hình 3.86).
Nếu như theo thứ tự tiển-hậu, trên trục chính trung
của một ngòi đình cổ Nam Bộ, chúng ta dẻ nhận ra
thứ tự bô' trí mặt bằng là: Võ ca - võ qui - tiền tế - Hình 3.86: Mặt hằng điển hình và
chính điện (nơi thờ Thành Hoàng). Ngược lại, cũng phân hớ'không gian sử dụng cùa kiến
theo thứ tự tiền - hậu, ngôi chùa cổ Nam Bộ có thứ trúc đình, chùa Nam Bộ. từ giữa thê
tự bố trí mặt bằng là: Chính diện (nơi thò Phật) - tổ kỳXXvê trước. [Nguồn: TG]
đường - giảng đường - trai đường. Trong hai phương
cách bố trí này, vị trí chính diện đình, chùa Nam Bộ có sự sắp xếp “đảo ngược” nhau.
Đối với kiến trúc dinh, hậu cung nơi đặt “Thẩn vị” là chốn thâm nghiêm, trước đây chỉ
có vị chù sự và thủ từ mới được vào hậu cung, bá tánh chỉ cúng tế ở nhà tién tế; sau này,
từ dầu thế kỷ XIX, theo nhu cầu phát triển có thêm nhà võ ca (nơi hát cúng đình) bố trí
liền trước võ qui và trước chính diện. Đối với kiến trúc chùa, xuất phát từ đặc điểm hình
thành vùng văn hoấ Nam Bộ với đạo lý uống nước nhớ nguồn, các vị tổ sư khai scm tạo
tự được đặc biệt coi trọng (“Tiên bái tổ sư, hậu bái Thích Ca” ịẵ w Ja ỉặ
]|u! - Lẻ tổ trước, lẻ Phật sau), tổ đường mở rộng thêm thành giảng đưòng phía sau chính
điện, Sự biến đổi linh hoạt này cho thấy có sự tích hợp vãn hoá với tín ngưỡng địa
phương trong hai loại hình kiến trúc tín ngưỡng - tôn giáo đình chùa.
Đặc biệt hơn, từ quan niệm “bình dân hóa” Thần, Phật,... kể cả người quá cô' qua các
“sinh hoạt” bình dị của họ như: ăn cổ, xem hát, nghe kinh... cùa tín ngưỡng địa phương,
người Nam Bộ đã nâng cao quan niệm trên thành cụ thể qua sự xuất hiện thêm các kiến
trúc phụ phục vụ các “sinh hoạt” trên như:
- Vô ca (Xem hình 3.127) phía trước chính điện đình để “hát” cúng Thần mỏi khi giô
kỵ. Đổng thời, đây còn là một sinh hoạt lễ hội mang tính cộng đồng, mọi người dân đểu
có thể tham gia xem hát cùng với Thần, tạo sự giao cảm và gần gũi giữa thế giới siêu
hình và hữu hình.
133