Page 127 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 127
f) Các cấu tạo chi tiết khác
Trong dòng chảy luôn biến động cùa lịch sử, các yếu tố chi tiết thường dễ thay đổi
nhất, chỉ có các yếu tố nào phù hợp với đặc tính văn hóa tộc người mới còn tồn tại bển bỉ
với thời gian, điều này rất hiếm. Do vậy, rất ít chi tiết kiến trúc mang tính lịch sử được
kế thừa từ Bắc đến Nam Bộ. Trong kiến trúc đình, chùa Nam Bộ có thể đơn cử một vài
đặc trưng chi tiết kiến trúc kế thừa lịch sử như sau:
Trong cấu tạo phần mái nhà, có thể thấy trong kiến trúc đình, chùa Nam Bộ, hai đầu
hổi liên thông với nhau (Xem hình 3.74) tạo dòng không khí đối lưu (Thường theo
hướng đông tây), không bịt kín như kiến trúc Hoa, Kh’mer. Cũng như Bắc Bộ, đình,
chùa Nam Bộ luôn có “đòn dông” trên dinh nóc (Xem hình 3.72) giữ sự ổn định đinh
kèo và đình nhà, đổng thời gánh tải của sóng nóc. Sau này, khoảng giữa thế kỷ XX đến
nay, do mê tín, sợ ảnh huờng xấu từ việc “thượng lương” (gác đòn dông) không đúng
cách, đỏi chỗ đã “trốn” (bỏ) đòn dông.
Sóng nóc thẳng, kết thúc hai đầu bẳng một hình tượng linh vật (lân, phụng, cá,
rồng...) (Xem hình 3.75), thường cấc linh vật có dáng tao nhã và quay đầu “hồi” lại nơi
điểm xuất phất (chính vì vậy vị trí hai đầu sóng nóc gọi là đầu hồi), tạo cảm giác khoang
hòa, thủy chung, hướng nội... Đây là một dặc trưng không thể thiếu, thường thấy qua
kiến trúc đình, chùa Nam Bộ, rất phù hợp với tính chất hướng nội trong vãn hóa trọng
tình truyền thống. Tâm sóng nóc thường cũng là tâm nhà, được bổ trí trang trọng hình
trái châu hay mạt nguyệt hoặc lưỡng long triều (chầu) nguyệt Õ ^ltÌS Ị^]), theo xu
hướng trọng tình (Jt1ìf), (Xem hình 3.76). Theo sóng nóc, sóng mái cũng kết thúc bằng
"tua cuốn” hình rổng, phụng, hay hoa lá cách điệu, tạo cảm giác nhẹ nhàng, sống dộng,
một kết thúc có hậu.
Sử dụng cửa “thượng song, hạ bản” (Xem hình 3.28) vừa kín đáo, vừa thông thoáng;
vừa nhẹ nhàng lại vừa thẩm mỹ, cũng là sự kế thừa lịch sử thường ihấy qua kiến trúc
đình, chùa Nam Bộ.
Đối vói cấu tạo nén móng, kế thừa lịch sử và phản ánh đặc thù vùng vãn hoá Nam Bộ
trong ứng xử và tận dụng môi trường tự nhiên, có thể thấy qua vật liệu “tấn nền” hay bó
vỉa, thường là đá xanh tảng hoặc “gạch vổ”. Đặc biệt, sau này tại Nam Bộ còn tấn nền
bằng “đá ong” (Xem hình 3.77), một vật liệu xây dụng thiên nhiên mới, có khá nhiều tại
các vùng đất giồng và miền đòng Nam Bộ.
Người Việt Nam thường lát nền, sau khi nện chặt, bằng vật liệu gạch nung già, diện
tích nhỏ. Miền Bắc thưòng sử dụng gạch “Bất Tràng”, Nam Bộ đã kế thừa kinh nghiệm
trên qua việc sử dụng “gạch tàu” (Xem hình 3.78) để lát nển đình, chùa. Vật liệu gạch
nung già, diện tích nhỏ có đặc tính chống mài mòn cao, độ co giãn “tương thích” với
nền dất, do đó mặt nền ít biến dạng, đặc biệt giá thành rè nên rất được nhân dân đương
thời ưa chuộng.
128