Page 124 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 124

3.2.1.3. K ế thừa lịch sử trong cấu tạo và vật liệu kiến trúc
             a) Cấu tạo và vật liệu móng
             Văn hóa trọng tinh được hình thành từ cuộc sống linh hoạt của xã hội nông nghiệp,
           nhất  là  trong  giai  đoạn di  trú  ban  đẩu;  kiến trúc không  phải  là vật  thể cô' định,  nó có
           thể tháo lắp và di  đời  từ nơi  này đến nơi  khác trong phạm vi hẹp nhằm thích nghi với
           môi  trường tự nhiên và môi trường xã hội. Tập quán sống này vẫn còn kéo dài  đến tận
           ngày  nay,  nhất  là  các  vùng  nông  thôn  và  miền  núi,  trung  du...  Do  vậy,  một  cấu  tạo
           móng linh hoạt bằng vật liệu dề kiếm hoàn toàn cẩn thiết trong điểu kiện sống như thế
           đã sớm ra đời.
             Móng của kiến trúc  Việt Nam xưa chỉ đơn giản là một “tán đá”, lớn nhỏ tùy  thuộc
           vào qui mô tòa kiến trúc mà nó “cõng” trên lưng. Tán đá thường đặt trên nền đất “nện”
           tạo  thành  nển  thiên  nhiên.  Tại  Nam  Bộ,  trong  hoàn  cảnh  bất  ổn  của  xã  hội  nông
           nghiệp, tương tự như thuở di trú ban đẩu của cha ỏng. Người Việt (kể cả người Hoa) là
           những  lưu dân,  cuộc  sống  hầu  hết  không  ổn định,  nhất  là những  giai  đoạn  đẩu,  theo
           chân họ, các công trình kiến trúc thường cũng tạm bợ, không ổn định. Đình, chùa cũng
           không ngoại lệ. Trong hoàn cảnh xã hội như vậy cộng thêm độ co ngót vật liệu rất lern,
           nhất là vật liệu gỗ, dưới tác động của khí hậu nóng ẩm nhiệt đới, người Nam Bộ đã kế
           thừa khá tốt cấu tạo và vật liệu móng linh hoạt nêu trên của người  xưa. Tận dụng môi
           trường tự nhiên mà thiên nhiên ưu đãi cho vùng đất Kam Bộ, cộng thêm sự cẩn cù sáng
           tạo, dá xanh đã dược tạc đẽo thành những viên “tán” làm móng với nhiều kích cỡ khác
           nhau  phù  hợp cho từng  cấu trúc nhà và địa cơ từng vùng.  Chính vì vậy, tán đá kê cột
           (Xem hình 3.71) là cấu tạo móng phổ biến trong kiến trúc đình, chùa nói riêng và kiến
           trúc  Nam  Bộ nói  chung,  ít ra đến  nửa dầu thế kỳ XX. Chính vì vậy, tán đá kẻ cột, vừa
           mang  tính  kế thừa lịch  sử, vừa  phản  ánh  nét văn hoá mang tính đặc thù cùa vùng  văn
           hoá Nam Bộ.
             b) Hình thức và vật liệu cột
             Trong lịch  sử kiến trúc  Việt Nam, gỗ là vật liệu xây dựng phổ biến nhất.  Do đó, cột
           nguyên thủy chính là thân cây nguyên hoặc gia công đôi chút cho thẩm mỹ và bền chắc.
           Dạng  tròn tự nhiên của thân cây  là hình  thức  phổ biến của cột gỗ xưa nay,  nó vừa tiết
           kiệm gỗ (sử dụng hầu hết thân gỗ) lại vừa thích dụng (ít nguy hiểm vì không có cạnh sắc
           bén). Cũng như tán đá,  kiến trúc đình và chùa Nam Bộ đã kế thừa lịch sử tương dối tốt
           hình thức cột tròn nêu trên  (Xem hình 3.70), đổng thời, qua đó cho thấy một phản ánh
           văn hoá qua việc  tận dụng môi trường tự nhiên trong thời gian đầu khai hoang, khi  mà
           gỗ hầu như có thừa thãi khắp nơi tại Nam Bộ. Chỉ sau này, để ít tốn diện tích và dễ dàng
           vân chuyển khi nguồn gỗ ờ khá xa nơi  xây dựng,  người Nam Bộ đã sử dụng cột vuông
           thay thế cột tròn đối vói các công trình ít quan trọng, hoặc sử dụng hỗn hợp cả hai hình
           thức vuông ưòn trong cùng một công trình.

                                                                      125
   119   120   121   122   123   124   125   126   127   128   129